Tình hình doanh nghiệp gia nhập thị trường 9 tháng năm 2024


Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 9 tháng năm 2024 là hơn 121,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 3,42% so với cùng kỳ năm 2023 với số vốn đăng ký hơn 1.158,5 nghìn tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2023; số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới là gần 735,1 nghìn lao động, giảm 3,37% so với cùng kỳ năm 2023.

Kinh tế thế giới 9 tháng năm 2024 tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; biến động chính trị, xung đột quân sự tiếp tục leo thang tại một số quốc gia, khu vực; tăng trưởng kinh tế, đầu tư, nhu cầu tiêu dùng toàn cầu phục hồi chậm, thiếu vững chắc; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu đã làm gia tăng rủi ro đối với an ninh hàng hải, chuỗi cung ứng hàng hóa, thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu. Tuy nhiên, hòa bình, hợp tác vẫn là xu thế cơ bản. Các tổ chức quốc tế đều nhận định lạc quan hơn về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với các dự báo đưa ra trước đó.

Trong nước, cơn bão số 3 đã gây nhiều thiệt hại về người, tài sản, hạ tầng kinh tế – xã hội và sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản ở các tỉnh phía Bắc.

Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 về 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả bão Yagi, nhanh chóng ổn định tình hình nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát. Theo đó, một số chính sách hỗ trợ hộ kinh doanh, doanh nghiệp có thể kéo dài, bổ sung nguồn lực thực hiện đến hết năm 2025 để phù hợp với sự phục hồi của doanh nghiệp, hộ kinh doanh và yếu tố mùa vụ trong sản xuất kinh doanh.

Doanh nghiệp đăng ký thành lập mới

Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 9 tháng năm 2024 là hơn 121,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 3,42% so với cùng kỳ năm 2023 với số vốn đăng ký hơn 1.158,5 nghìn tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2023; số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới là gần 735,1 nghìn lao động, giảm 3,37% so với cùng kỳ năm 2023.

Riêng tháng 9/2024, có 11.216 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký là 92.818 tỷ đồng, giảm 5,03% về số doanh nghiệp và giảm 5,81% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2023.

Quy mô vốn: Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 9 tháng đầu năm 2024 đạt 2.310.525 tỷ đồng (giảm 6,1% so với cùng kỳ năm 2023). Quy mô vốn đăng ký bình quân/một doanh nghiệp đạt 9,5 tỷ đồng, tương đương cùng kỳ năm 2023 và thấp hơn mức bình quân của giai đoạn 9 tháng đầu năm trong 5 năm 2019-2023 (12 tỷ đồng).

Quy mô và lĩnh vực hoạt động: Doanh nghiệp thành lập mới đa phần có quy mô nhỏ (từ 0 – 10 tỷ đồng) với 112.888 doanh nghiệp (chiếm 92,6%, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2023), chủ yếu thuộc nhóm ngành Dịch vụ với 92.427 doanh nghiệp, chiếm 75,8% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, tăng 4,36% so với năm ngoái. Nhóm ngành Công nghiệp và Xây dựng có 28.267 doanh nghiệp gia nhập thị trường, chiếm 23,2% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2023. Khu vực Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản ghi nhận 1.204 doanh nghiệp thành lập mới, chiếm 1% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, giảm 5,64% so với cùng kỳ năm trước.

Có 8/17 ngành có số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm 2023: Công nghiệp chế biến, chế tạo có 14.757 doanh nghiệp, tăng 5,1%; Sản xuất, phân phối điện, nước, gas có 896 doanh nghiệp, tăng 11,0%; Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 49.961 doanh nghiệp, tăng 10,3%; Vận tải kho bãi có 6.503 doanh nghiệp, tăng 13,5%; Thông tin và truyền thông có 3.761 doanh nghiệp, tăng 6,3%; Kinh doanh bất động sản có 3.446 doanh nghiệp, tăng 1,4%; Nghệ thuật, vui chơi và giải trí có 1.013 doanh nghiệp, tăng 11,0%; Hoạt động dịch vụ khác có 1.242 doanh nghiệp, tăng 1,7%.

Theo khu vực, các doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ (52.381 doanh nghiệp, chiếm 43%) và vùng Đồng bằng sông Hồng (37.107 doanh nghiệp, chiếm 30,4%).

Các vùng kinh tế đều có số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm 2023, cụ thể: Vùng Đồng bằng sông Hồng có 37.107 doanh nghiệp, tăng 0,4%; vùng Trung du và miền núi phía Bắc có 6.239 doanh nghiệp, tăng 5,1%; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 13.950 doanh nghiệp, tăng 1,7%; vùng Tây Nguyên có 3.041 doanh nghiệp, tăng 0,1%; vùng Đông Nam Bộ có 52.381 doanh nghiệp, tăng 5,4%; vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 9.180 doanh nghiệp, tăng 7,9%.

 Biểu 1: Doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động 9 tháng năm 2024 của một số địa phương

Tình hình doanh nghiệp gia nhập thị trường 9 tháng năm 2024 - Ảnh 1

Doanh nghiệp quay trở lại hoạt động[1]

Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 9 tháng năm 2024 đạt hơn 61,1 nghìn doanh nghiệp. Trung bình mỗi tháng trong 9 tháng năm 2024 có gần 6,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động. Riêng tháng 9/2024 ghi nhận có 6.479 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trên phạm vi cả nước, giảm 23,7% so với tháng 8/2024.

Số doanh nghiệp trở quay lại hoạt động phân theo ngành, nghề kinh doanh chính trong chín tháng năm 2024 là: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản có 816 doanh nghiệp; Khai khoáng 397 doanh nghiệp; Công nghiệp chế biến, chế tạo 7.027 doanh nghiệp; Sản xuất phân phối, điện, nước, gas với 964 doanh nghiệp; Xây dựng 7.967 doanh nghiệp; Bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy 22.337 doanh nghiệp; Vận tải kho bãi 3.036 doanh nghiệp; Dịch vụ lưu trú và ăn uống với 3.040 doanh nghiệp; Thông tin và truyền thông với 1.362 doanh nghiệp; Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm với 484 doanh nghiệp; Kinh doanh bất động sản có 2.553 doanh nghiệp; Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 4.499 doanh nghiệp; Giáo dục và đào tạo 1.364 doanh nghiệp; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có 296 doanh nghiệp; Nghệ thuật, vui chơi và giải trí có 408 doanh nghiệp; Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 2.953 doanh nghiệp;  Hoạt động dịch vụ khác có 1.600 doanh nghiệp.

Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động phân theo các vùng kinh tế – xã hội trong chín tháng năm 2024 là: Vùng Đồng bằng sông Hồng với 19.745 doanh nghiệp; vùng Trung du và miền núi phía Bắc với 3.081 doanh nghiệp; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với 7.789 doanh nghiệp; vùng Tây Nguyên với 1.480 doanh nghiệp; vùng Đông Nam Bộ với 25.159 doanh nghiệp; vùng Đồng bằng sông Cửu Long với 3.849 doanh nghiệp.

Hình 1: Tình hình doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường chín tháng các năm giai đoạn 2016 – 2024

Tình hình doanh nghiệp gia nhập thị trường 9 tháng năm 2024 - Ảnh 2

Đề xuất, kiến nghị

Theo Báo cáo Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam được S&P Global công bố ngày 01/10/2024, chỉ số này đã giảm xuống dưới ngưỡng 50 điểm trong tháng 9, báo hiệu các điều kiện kinh doanh suy giảm trở lại vào thời điểm cuối quý 3 của năm, sau khi đã có một giai đoạn tăng trưởng mạnh. Trong đó, các điểm nhấn nổi bật là: (i) sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới giảm đáng kể; (ii) tồn kho hàng hóa đầu vào giảm với mức gần kỷ lục do ảnh hưởng nặng nề của bão Yagi trong tháng 9 với mưa lớn và lũ lụt dẫn đến đóng cửa hoạt động kinh doanh tạm thời và sự chậm trễ ở các dây truyền sản xuất và chuỗi cung ứng. Kết quả là, sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới, hoạt động mua hàng và tồn kho hàng hóa đầu vào đều giảm.

Dự báo thời gian tới, tình hình kinh tế – xã hội nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn nên chịu nhiều tác động trước những rủi ro, bất ổn trên thế giới về kinh tế, chính trị, thiên tai, dịch bệnh…

Để tiếp tục thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, phấn đấu hoàn thành mục tiêu của Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ, trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện một số biện pháp hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp, nhà đầu tư tham gia và đóng góp cho mục tiêu tăng trưởng, phát triển đất nước. Cụ thể như sau:

Tập trung triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ hỗ trợ các cơ sở sản xuất, hộ kinh doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp để khôi phục nhanh chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động, phục hồi và thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh sau bão Yagi, đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

Đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng trong nước bằng các biện pháp kích thích tài khóa mạnh mẽ hơn như đẩy nhanh thực hiện đầu tư công, duy trì lãi suất thấp cũng như triển khai có hiệu quả các chương trình thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng bán lẻ.

Tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, ưu tiên khai thác và tận dụng tối đa các cơ hội từ các thị trường xuất khẩu trọng điểm, chiến lược và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký; thúc đẩy đàm phán, ký kết các FTA mới, mở rộng các thị trường mới như Trung Đông, Châu Phi, thị trường sản phẩm Halal…