Vận dụng nguyên tắc của Hiệp ước Basel để hạn chế nợ xấu (*)
(Tài chính) Việt Nam không nằm trong danh sách các quốc gia thành viên của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, tức không chịu áp lực phải vận dụng các quy định an toàn của các hiệp ước này, song việc vận dụng các hiệp ước Basel trong hoạt động quản trị ngân hàng là vấn đề hết sức ý nghĩa và cần thiết đối với hệ thống ngân hàng nước ta.

Với việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ ngày càng lành mạnh hơn, khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ ngày càng được nâng cao hơn và tính an toàn hoạt động cũng ngày càng đảm bảo hơn.
Mục tiêu của bài viết nêu ra các nguyên tắc quản lý nợ xấu của Basel, thực trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam từ đó đưa ra một số gợi ý trên cơ sở vận dụng nguyên tắc Basel nhằm hạn chế nợ xấu tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Nợ xấu và nguyên tắc quản lý nợ xấu của Basel
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về nợ xấu, theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Một khoản cho vay được coi là không sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ được thực hiện đầy đủ". Với quan điểm này, nợ xấu được nhận dạng qua hai giác độ: thời gian quá hạn và khả năng trả nợ đáng nghi ngờ.
Theo thông tư 02/2013/TT-NHNN, nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn); các nhóm nợ trên có các khoản nợ gốc và lãi đã quá hạn từ 90 ngày trở lên. Tuy có nhiều khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung các khái niệm nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên hai yếu tố: (i) Các khoản dư nợ đã quá hạn từ 90 ngày trở lên; (ii) Khả năng trả nợ của khách hàng được xếp vào loại nghi ngờ về khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
Kiểm soát và xử lý vấn đề nợ xấu luôn là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của hệ thống ngân hàng, đặc biệt khi tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam tăng cao như hiện nay. Việc tỷ lệ nợ xấu cao nếu không kiểm soát và xử lý kịp thời thì hậu quả xấu của nó gây ra đối với bản thân các ngân hàng và đối với nền kinh tế là rất lớn. Tỷ lệ nợ xấu cao có thể làm giảm lợi nhuận hoặc gây thua lỗ đối với ngân hàng do tăng trích lập dự phòng rủi ro, làm xói mòn niềm tin đối với người gửi tiền, các nhà đầu tư và nếu không sớm cải thiện sẽ gây nên rủi ro thanh khoản và ảnh hưởng rất lớn đến an toàn của hệ thống ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu cao sẽ gây bất ổn cho kinh tế vĩ mô, nợ xấu là một trong những tác nhân gây ra lạm phát cao và sau đó kéo theo là lãi suất cũng tăng cao do Ngân hàng trung ương phải thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Một khi lạm phát và lãi suất tăng cao sẽ gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặt biệt là các doanh nghiệp có tỷ trọng vốn vay lớn.
Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision - BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng.
Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đưa ra các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:
- Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt định kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến lược xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp nhận rủi ro…). Ban tổng giám đốc có trách nhiệm thực hiện các định hướng mà Hội đồng quản trị phê duyệt và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các ngân hàng cần xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm của mình.
- Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): Các ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh được xác định rõ ràng. Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro khác nhau nhưng vẫn có thể theo dõi được trên sổ sách kế toán kinh doanh, nội bảng và ngoại bảng. Ngân hàng cần có quy trình rõ ràng trong việc phê duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn, tái cơ cấu, tái tài trợ cho các khoản tín dụng hiện tại. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên.
- Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10 nguyên tắc): Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng, cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản tín dụng, bao gồm mức độ đầy đủ của dự phòng và dự trữ. Khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng. Ngân hàng cần có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân tích để đo lường được rủi ro tín dụng trong mọi hoạt động nội và ngoại bảng; phải có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng của toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng; cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
Tình hình nợ xấu của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua tại Việt Nam
Nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng có chiều hướng gia tăng mạnh. Số liệu nợ xấu được công bố gần đây đã phản ánh xu hướng này. Từ năm 2005 đến 2007, tỷ lệ nợ xấu đã giảm đáng kể, từ 3,18%/năm xuống còn 2%/năm. Nhưng đến năm 2008, tỷ lệ nợ xấu đã tăng trở lại (3,5%/năm) chủ yếu là trong lĩnh vực bất động sản. Tín dụng bất động sản năm 2007 tăng cao và khi bong bóng bất động sản vỡ tan, thị trường bất động sản xuống giá, người vay không trả được nợ làm phát sinh nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu được công bố chính thức có chiều hướng tăng dần từ năm 2009 và ở mức 8,6% năm 2012. Đây là mức cao nhất trong các năm qua, mặc dù các Ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay, tình hình lạm phát đã được cải thiện nhưng doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn, không có nguồn thu trả nợ ngân hàng. Các tổ chức xếp hạng độc lập cũng như các nhà kinh tế khác cho rằng mức nợ xấu chưa được công bố thực sự còn cao hơn rất nhiều. Nhiều cá nhân và tổ chức cho rằng con số nợ xấu 8,6% năm 2012 chưa thực sự phản ánh trung thực tình trạng khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam hoặc chất lượng tín dụng của các ngân hàng.
Tình hình nợ xấu của các NHTM tại Việt Nam từ 2005-2012
Chỉ tiêu |
2005 |
2006 |
2007 |
2008 |
2009 |
2010 |
2011 |
2012 |
Dư nợ (1.000 tỷ đồng) |
527 |
661 |
1.017 |
1.275 |
1.754 |
2.301 |
2.577 |
2.937 |
Nợ xấu (1.000 tỷ đồng) |
17 |
13 |
20 |
45 |
36 |
58 |
85 |
252 |
Tỷ lệ nợ xấu (%) |
3,18 |
2,00 |
2,00 |
3,5 |
2,03 |
2,51 |
3,3 |
8,6 |
Nguồn: Tổng hợp số liệu của NHNN qua các năm
Bản chất của nợ xấu ngân hàng là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không hiệu quả và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài. Nợ xấu hiện nay của các tổ chức tín dụng được tích lũy từ trước đây do môi trường kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008, khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài chính và hoạt động, vì vậy nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng có chiều hướng gia tăng nhanh trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh dư nợ tín dụng không biến động nhiều từ đầu năm 2012 trở lại đây cho thấy nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là các khoản tín dụng đã được cấp trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh.
Nguyên nhân chính dẫn đến phát sinh nợ xấu:
Nền kinh tế mang tính toàn cầu nên khủng hoảng tài chính đã dẫn đến sự suy thoái kinh tế thế giới, có nước bị ảnh hưởng nhiều và một số nước bị ảnh hưởng ít hơn, tuy nhiên với mức độ ảnh hưởng nhất định đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tăng trưởng kinh tế của mỗi nước. Nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng như lạm phát cao dẫn đến lãi suất cao và nền kinh tế nói chung lâm vào tình trạng trì trệ như thị trường bất động sản đóng băng, thị trường chứng khoán không còn là kênh để thu hút vốn đầu tư hiệu quả; các doanh nghiệp lớn kinh doanh thua lỗ, phát sinh nhiều nợ không có khả năng hoàn trả vốn vay và lãi vay; doanh nghiệp nhỏ và vừa do thiếu vốn, hoạt động kinh doanh không hiệu quả nên phải đóng cửa, phá sản.
Chính các ngân hàng trước đây chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, cấp tín dụng tràn lan và không kiểm soát được rủi ro của danh mục tín dụng. Các ngân hàng không có hệ thống báo cáo về mức rủi ro tín dụng của từng khách hàng, ngành hàng, sản phẩm, kỳ hạn.
Kể từ năm 2005, Ngân hàng Nhà nước ban hành nhiều quy định mới về quản trị rủi ro, an toàn hoạt động ngân hàng và quản lý tín dụng đặc biệt là quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tiến dần tới các chuẩn mực quốc tế. Ngân hàng nhà nước đã ban hành rất nhiều quy định để kiểm soát và quản lý tình trạng nợ xấu tại các ngân hàng thương mại và gần đây nhất là ban hành thông tư 02/2013/TT-NHNN về phân loại nợ (có hiệu lực từ tháng 6 năm 2013) và thành lập VAMC (Công ty quản lý tài sản Việt Nam) để mua lại nợ xấu của các ngân hàng để giúp các ngân hàng xử lý nợ xấu.
Hoạt động của Ngân hàng có nhiều bước chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trong nền kinh tế đầy biến động rủi ro là điều không thể tránh khỏi đối với tất cả các thành phần kinh tế. Những nguy cơ tiềm ẩn như sự không trung thực của khách hàng, vốn vay bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản hay do suy thoái kinh tế đều có khả năng biến một khoản vay chất lượng cao thành một khoản nợ xấu. Kinh doanh ngân hàng không thể tránh khỏi nợ xấu, nhưng để nợ xấu tồn tại lâu và quá cao là vấn đề nghiêm trọng cần phải giải quyết. Nhiệm vụ quan trọng và trọng tâm của ngân hàng thương mại là phải nâng cao chất lượng tín dụng, đưa ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng nhằm giảm thiểu nợ xấu đến mức thấp nhất.
Kết luận và gợi ý chính sách
Quan điểm của Ủy ban Basel là: sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia, dù quốc gia phát triển hay đang phát triển, sẽ đe dọa đến sự ổn định về tài chính trong cả nội bộ quốc gia đó. Vì vậy, nâng cao sức mạnh của hệ thống tài chính là điều mà Ủy ban Basel quan tâm. Ủy ban Basel không chỉ bó hẹp trong phạm vi các nước thành viên mà mở rộng mối liên hệ với các chuyên gia trên toàn cầu. Trên cơ sở tham khảo các nguyên tắc quản trị tín dụng của Basel, tác giả nêu ra một số gợi ý nhằm góp phần hạn chế nợ xấu tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Áp dụng phương pháp phân loại nợ có khả năng cảnh báo sớm rủi ro tín dụng: Các ngân hàng phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng để từng bước tiếp cận cách đánh giá rủi ro tín dụng và phân loại theo chuẩn quốc tế (Basel II) giúp các ngân hàng nhận biết sớm được các khoản tín dụng có nguy cơ xảy ra rủi ro, từ đó có thể đưa ra được các giải pháp để có thể hạn chế nợ xấu. Đối với những khoản nợ vay đã phát sinh nợ xấu, Ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan thi hành án, trung tâm đấu giá tài sản và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác … để đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản đảm bảo, thu hồi vốn.
Thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng: Bản thân hoạt động tín dụng luôn chứa đựng nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, chính vì vậy, các ngân hàng khi xem xét cho vay đều phải thực hiện nghiêm ngặt quy trình quản lý tín dụng: từ khâu thẩm định, giải ngân cho vay đến các khâu kiểm tra trước và sau khi cho vay… Việc thực hiện và quản lý nghiêm ngặt quy trình quản lý tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro các khoản nợ xấu phát sinh, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai phạm và các thiếu sót trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thẩm định tín dụng chặt chẽ: Trước khi cho vay cần thẩm định các điều kiện như tính pháp lý, khả năng tài chính và tính khả thi của phương án, dự án vay vốn từ đó lựa chọn ra những khách hàng tốt, khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó, căn cứ vào cơ sở xếp loại khách hàng, mức dư nợ cũng như ngành nghề ưu tiên đầu tư, Ngân hàng xem xét và đưa ra chính sách lãi suất phù hợp với từng đối tượng khách hàng theo nguyên tắc khách hàng vay có độ rủi ro thấp, có số dư nợ lớn hay thuộc ngành nghề ưu tiên đầu tư thì áp dụng lãi suất cho vay thấp, nới lỏng một số điều kiện cho vay và ngược lại.
Nâng cao vai trò của CIC và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập: Để các ngân hàng Việt Nam có thêm cơ sở để ra quyết định tín dụng, bên cạnh kết quả phân tích tín dụng và kết quả xếp hạng tín nhiệm nội bộ của mình, rất cần có thêm thông tin và kết quả xếp hạng tín nhiệm của CIC và các công ty xếp hạng tín nhiệm độc lập.
Mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin về khách hàng, thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung cấp các thông tin cảnh báo…, góp phần quan trọng cho sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam vì mục tiêu an toàn, hiệu quả nhưng những đòi hỏi về thông tin của các ngân hàng vẫn chưa được đáp ứng một cách đáng tin cậy, nhanh chóng và kịp thời.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Huy Hoàng (2012), Khủng hoảng kinh tế, quản trị ngân hàng và vấn đề nợ xấu, Tạp chí Công nghệ ngân hàng số 73, tháng 4/2012, trang 4-9.
2. Ngân hàng Nhà nước (2013), Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3. KPMG (2013), Khảo sát về ngành ngân hàng Việt Nam 2013.
(*) Tít bài do FinancePlus.vn đặt.