Việt Nam chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu

Hoa Sơn

Biến đổi khí hậu gây hậu quả đến cuộc sống con người, càng làm thay đổi môi trường sống Trái đất. Hiện nay, tình hình biến đổi khí hậu đang tác động rất lớn tới nước ta khi Việt Nam là một trong 6 quốc gia bị tác động của biến đổi khí hậu lớn nhất trên thế giới.

Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ, phát triển rừng và các hệ sinh thái để ứng phó với biến đổi khí hậu.
Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ, phát triển rừng và các hệ sinh thái để ứng phó với biến đổi khí hậu.

Hệ quả khó lường của biến đổi khí hậu 

Theo Luật Khí tượng thủy văn 2015, biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu trong một khoảng thời gian dài do tác động của các điều kiện tự nhiên và hoạt động của con người, biểu hiện bởi sự nóng lên toàn cầu, mực nước biển dâng và gia tăng các hiện tượng khí tượng thủy văn cực đoan.

Theo các chuyên gia môi trường, biến đổi khí hậu gây hậu quả đến cuộc sống con người, càng làm thay đổi môi trường sống Trái đất. Theo đó, có thể chỉ ra những hậu quả biến đổi khí hậu đến cuộc sống con người như:

Một là, tăng nhiệt độ toàn cầu: Tăng nhiệt độ toàn cầu gây ra nhiệt độ môi trường khắc nghiệt hơn với con người, như nhiệt độ cao kỷ lục tăng theo từng năm, những cơn nóng kéo dài trên 40 độ C, dẫn đến cơ thể con người không có thể chịu nổi.

Hai là, mực nước biển dâng cao: Hậu quả tiếp theo từ sự tăng nhiệt độ toàn cầu là sự tan chảy của các tảng băng hà ở Nam cực và Bắc cực dẫn đến ngập lụt ở các khu vực ven biển và đồng bằng thấp hơn so với mực nước biển.

Ba là, thay đổi môi trường sống: Sự khắc nghiệt về nhiệt độ gây ra thiệt hại về sản xuất về lương thực và nông sản, vì cây cối và động vật cũng không thể nào thích nghi kịp thời trong điều kiện khí hậu quá nóng bức. Gây báo động nguy cơ tuyệt chủng của một số loài động thực vật.

Bốn là, gia tăng các bệnh tật: Biến đổi khí hậu gây ra sự gia tăng của các bệnh nhiễm trùng, bệnh lây qua đường nước, sốt rét, viêm não Nhật Bản. Ngoài ra, nhiệt độ cao cũng gây ra tác động đến hệ miễn nhiễm, stress, bệnh tim mạch, hô hấp và thần kinh.

Năm là, thiệt hại về kinh tế: Việc biến đổi khí hậu có ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng nông hải sản. Lũ lụt gây cản trở cho việc vận chuyển hàng hóa và xuất nhập khẩu.

Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu

Tại Việt Nam, trong thời gian qua, tình hình biến đổi khí hậu đang tác động rất lớn tới nước ta khi Việt Nam là một trong 6 nước bị tác động của biến đổi khí hậu lớn nhất trên thế giới. Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Với đường bờ biển dài hơn 3000 km, Việt Nam nằm trong khu vực châu Á gió mùa, hàng năm phải đối mặt với bão, lốc, các hiện tượng thiên tai khí tượng xảy ra hầu như quanh năm và tác động xấu đến nhiều vùng miền, lĩnh vực. Ngoài ra, minh chứng rõ nhất của tác động biến đổi khí hậu tại Việt Nam là hiện tượng nắng nóng đến sớm, lượng mưa giảm, khí hậu thay đổi rất rõ, dẫn tới khô hạn và nguy cơ cháy rừng rất cao tại một số khu vực trong cả nước.

Nhận thức được ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong phát triển bền vững, Việt Nam đã luôn chủ động và tích cực thực hiện các cam kết quốc tế và nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu. Thời gian qua, Việt Nam luôn chủ động và tích cực tham gia có trách nhiệm, thực chất, hiệu quả các điều ước quốc tế về biến đổi khí hậu toàn cầu. Đơn cử, Việt Nam sớm tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) năm 1992 và phê chuẩn năm 1994; tham gia Công ước Vienna về bảo vệ tầng ozone và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozone năm 1994. Đến nay, Việt Nam đã tham gia 18 điều ước, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực BĐKH.

Năm 2021, tại COP26, Việt Nam đã bày tỏ sự đồng hành mạnh mẽ cùng 147 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về "0" vào năm 2050; cùng 103 quốc gia tham gia Cam kết giảm phát thải khí methanol toàn cầu; cùng 140 quốc gia tham gia Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất; cùng 48 quốc gia tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch; cùng 150 quốc gia tham gia Liên minh hành động thích ứng toàn cầu.

Ngay sau COP26, Việt Nam đã thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26, ban hành Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050, Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030, Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2000 và 2022 gửi Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Phê duyệt Quy hoạch điện VIII…

Đặc biệt, năm 2022, Việt Nam cũng đã đàm phán và thông qua Tuyên bố Chính trị thiết lập Quan hệ Đối tác Chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với Nhóm các đối tác quốc tế IPG (gồm các nước G7, Liên minh châu Âu, Đan Mạch, Na Uy). Sau 1 năm thông qua Tuyên bố JETP, tại COP28 (tháng 12/2023), Việt Nam chính thức công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố JETP cùng Nhóm IPG. Theo các chuyên gia, với việc trở thành quốc gia đầu tiên công bố Kế hoạch huy động nguồn lực triển khai JETP, Việt Nam đã thể hiện tâm thế sẵn sàng và hành động mạnh mẽ để khơi thông nguồn tài chính từ JETP và chuyển hóa thành các dự án mang tính đột phá, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng của Việt Nam.

Ngày 19/11/2024,  Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 1422/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Kế hoạch đặt mục tiêu cụ thể là nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, bảo đảm sinh kế bền vững; nâng cao năng lực và nhận thức để sẵn sàng điều chỉnh trước những thay đổi của khí hậu. Đồng thời giảm nhẹ rủi ro thiên tai, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng, góp phần giảm thiểu tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu. Hoàn thiện thể chế, phát huy tiềm năng và nguồn lực nhằm thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu và thúc đẩy việc lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch.

Để đạt được các mục tiêu đề ra, Chính phủ cũng nêu rõ 3 nhóm nhiệm vụ giải pháp thực hiện gồm: 

Một là, nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, bảo đảm sinh kế bền vững thông qua đầu tư cho các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm sử dụng hiệu quả và ngăn chặn tình trạng suy giảm, suy thoái tài nguyên; phát triển nông nghiệp thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo vệ, phát triển rừng và các hệ sinh thái; phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng; tăng cường hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe; bảo đảm an sinh xã hội và bình đẳng giới.

Hai là, giảm nhẹ rủi ro thiên tai, giảm thiệt hại do thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng, góp phần giảm thiểu tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu. Triển khai các giải pháp tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo sớm thiên tai và các điều kiện khí hậu, thời tiết cực đoan; cải thiện đánh giá và quản lý rủi ro khí hậu; thực hiện các giải pháp giảm nhẹ rủi ro thiên tai, giảm thiểu tổn thất và thiệt hại do các tác động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của biến đổi khí hậu, sẵn sàng ứng phó với thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng.

Ba là, hoàn thiện thể chế, phát huy tiềm năng và nguồn lực để thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu, hoàn thiện thể chế, chính sách và thúc đẩy việc lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch; thúc đẩy các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu đồng lợi ích, nâng cao nhận thức và sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua truyền thông, đào tạo, tăng cường nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, huy động các nguồn tài chính, đầu tư và các hoạt động hợp tác quốc tế ứng phó với biến đổi khí hậu.

Theo các chuyên gia môi trường, các cam kết và hành động của Việt Nam đã phát đi tín hiệu mạnh mẽ đến cộng đồng quốc tế về quyết tâm cao trong ứng phó với biến đổi khí hậu, mở ra cơ hội chuyển dịch mô hình phát triển theo hướng phát thải thấp để thực hiện mục tiêu chuyển đổi xanh, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.