Xử lý nợ xấu đối mặt nhiều khó khăn
Trong Luật Các TCTD (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua, các TCTD cũng không có đặc quyền thu giữ TSBĐ. Do vậy, các TCTD cần xác định việc thu nợ là nhiệm vụ của mình, trước khi cho vay cần hết sức chặt chẽ, đảm bảo đúng nguyên tắc, thủ tục và điều kiện cho vay.
Rủi ro nợ xấu trực chờ
Tuy kinh tế Việt Nam đang có tín hiệu khởi sắc và được dự báo tích cực hơn so với năm 2023, nhưng các chuyên gia đánh giá mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2024 ở mức 6-6,5% là không dễ. Bởi lẽ dự báo kinh tế thế giới năm 2024 cũng không thuận lợi.
Trong báo cáo mới đây, Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo, kinh tế toàn cầu chỉ tăng trưởng 2,4% trong năm nay, thấp hơn mức tăng 2,6% của năm 2023; trong đó kinh tế Mỹ được dự báo chỉ tăng trưởng 1,6%; EU tăng trưởng 0,7%, Nhật Bản tăng trưởng 0,9%; Trung Quốc tăng trưởng 4,5%...
Là nền kinh tế có độ mở lớn và phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nên Việt Nam chắc chắn sẽ chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực khi kinh tế toàn cầu tiếp tục giảm tốc. Trong khi đó hoạt động ngân hàng lại phụ thuộc nhiều vào diễn biến nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu của các doanh nghiệp. Việc sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn một mặt sẽ gây khó cho tăng trưởng tín dụng, mặt khác lại tiềm ẩn nhiều rủi ro nợ xấu cho các ngân hàng.
Đặc biệt tài sản đảm bảo (TSĐB) của các khoản nợ xấu đa phần là bất động sản. Do đó, khi thị trường bất động sản trầm lắng, các TCTD cũng khó kiếm được người mua nợ phù hợp. Ngoài ra theo chia sẻ của các ngân hàng, chính sách cơ cấu lại nợ theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN hết hiệu lực vào 30/06/2024 cũng sẽ tạo áp lực rất lớn về trả nợ cho các doanh nghiệp.
Trước dự báo năm 2024 vẫn còn nhiều thách thức và diễn biến khó lường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng vẫn trực chờ, tại Chỉ thị số 01/2024/CT-NHNN, NHNN chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh công tác xử lý, thu hồi nợ xấu; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế nợ xấu mới phát sinh. Đây là nhiệm vụ được đánh giá tương đối khó khăn đối với các ngân hàng trong bối cảnh sức khoẻ của doanh nghiệp còn yếu. Song, dù có khó các ngân hàng khẳng định kiểm soát tốt nợ xấu là mục tiêu hàng đầu của ngân hàng trong năm 2024.
Theo đánh giá của Chủ tịch HĐQT VietinBank Trần Minh Bình, việc xử lý nợ xấu là bước đi quan trọng trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi nợ xấu có nguy cơ tăng do các doanh nghiệp gặp khó khăn, phần lớn nguyên nhân do phải chịu tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài đại dịch COVID-19. Thêm vào đó các cuộc xung đột Nga-Ukraine, khu vực Trung Đông... đẩy phí nguyên liệu lên rất cao, làm tăng chi phí doanh nghiệp, làm suy giảm khả năng trả nợ. “Qua đó có thể thấy nợ xấu là vấn đề của cả nền kinh tế, không chỉ là riêng ngành Ngân hàng”, ông Trần Minh Bình chia sẻ.
Xử lý nợ xấu sẽ khó khăn hơn
Từ thực tế trên có thể thấy, một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của các TCTD trong năm 2024 và những năm tiếp theo là vấn đề xử lý nợ xấu.
Trong bối cảnh Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực, theo đánh giá của TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam sẽ gây khó khăn cho các TCTD trong công tác thu hồi nợ, xử lý các khoản nợ và TSBĐ. Dẫu vậy, các TCTD vẫn cần tuân thủ, thực hiện theo quy định của pháp luật để đảm bảo đôn đốc, xử lý thu hồi nợ đúng với các quy định của pháp luật và Luật Dân sự. Điều TS. Nguyễn Quốc Hùng lo lắng khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực là vấn đề về ý thức trả nợ, tâm lý chây ỳ không trả nợ, bởi không có giải pháp, quy định pháp luật nào để thu hồi và xử lý nợ xấu. “Sẽ lại xuất hiện tình trạng “con nợ” cố tình không trả nợ, không tự nguyện bàn giao tài sản, tạo ra những trường hợp tranh chấp giả tạo dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi nợ… Điều này ảnh hưởng rất lớn đến các TCTD”, TS. Hùng bày tỏ quan ngại.
Lãnh đạo VAMC chia sẻ, phần lớn khách hàng được VAMC mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt đã ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, không có khả năng phục hồi, không hợp tác, thậm chí liên quan đến các vụ án, đang chấp hành hình phạt...; TSBĐ của các khoản nợ xuống cấp. Mặt khác, trong những năm vừa qua, nền kinh tế diễn biến không thuận lợi thị trường bất động sản sụt giảm, thanh khoản kém, thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu diễn biến khó khăn... nhu cầu tiếp cận nguồn vốn vay cũng như nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp rất hạn chế, tác động tiêu cực đến dòng tiền cũng như định hướng kinh doanh, kế hoạch tài chính của các khách hàng đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ mua bán, xử lý thu hồi nợ của VAMC.
Khó khăn nữa, theo các quy định hiện hành, VAMC chỉ được đấu giá TSĐB của khoản nợ xấu mà VAMC đã mua của các TCTD bao gồm khoản nợ xấu được mua theo giá trị thị trường và mua bằng trái phiếu đặc biệt, dẫn tới hạn chế đối tượng đấu giá, phạm vi hoạt động đấu giá của VAMC.
Thực tế, các TCTD cũng đang rất lo lắng, bởi trước đây còn có các tổ chức chính quyền cùng vào cuộc trong việc xử lý, thu hồi nợ, nhưng hiện tại chỉ còn ngân hàng “đơn thương độc mã” trong xử lý nợ xấu. Nếu người dân chây ỳ không trả nợ, các TCTD không thể xử lý được và phải đưa ra tòa thì một vụ việc khi đó sẽ mất rất nhiều thời gian, thậm chí kéo dài tới 5-7 năm vẫn chưa thu hồi được nợ.
Trong Luật Các TCTD (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua, các TCTD cũng không có đặc quyền thu giữ TSBĐ. Do vậy, ông Hùng cho rằng, các TCTD cần xác định việc thu nợ là nhiệm vụ của mình, trước khi cho vay cần hết sức chặt chẽ, đảm bảo đúng nguyên tắc, thủ tục và điều kiện cho vay. TSBĐ cần được thẩm định, xác minh, đánh giá giá trị, nguồn gốc tài sản và theo sát từng thời điểm để có thể nắm bắt diễn biến của TSBĐ.
“Cần chặt chẽ hơn trong việc xác định TSBĐ theo đúng quy định pháp luật, không có kẽ hở nào để người vay có thể lợi dụng. Đồng thời, các TCTD cần nâng cao trách nhiệm trong việc thẩm định, xác định giá trị và hiện trạng của TSBĐ, kể cả tài sản của bên thứ 3 và các thành viên liên quan đến tài sản đó cũng cần hết sức chặt chẽ, không thể buông lỏng. Làm tốt các bước này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại các TCTD”, ông Hùng lưu ý thêm với các ngân hàng.
Về lâu dài, các chuyên gia đề xuất cần có hành lang pháp lý mới, đồng bộ hơn để giải quyết bài toán “cục máu đông” nợ xấu. Trong đó cần sửa đổi Luật Dân sự để phù hợp hơn với thực tiễn, có quy trách nhiệm rõ ràng cho những người có khả năng trả nợ mà chây ỳ không trả nợ.