85% lao động ngành dệt may Việt Nam trước “báo động đỏ” từ Cách mạng công nghiệp 4.0
Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (với trình độ tự động hóa cao, sử dụng robot), ngành Dệt may Việt Nam sẽ mất lợi thế về nhân công giá rẻ; 85% lao động trong Ngành có thể sẽ bị máy móc công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 thay thế.
Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi cơ bản khái niệm đổi mới công nghệ, trang thiết bị trong các dây chuyền sản xuất. Từ đó, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm sẽ được cải thiện, thu nhập của người lao động theo đó cũng tăng cao hơn.
Tuy nhiên, theo Tổ chức Lao động quốc tế – ILO, 85% lao động trong ngành Dệt may của Việt Nam sẽ bị máy móc công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thay thế. Tỷ lệ này sẽ chuyển thành con số tuyệt đối rất lớn vì dệt may tập trungnhiều lao động ít kỹ năng (khoảng 17% chỉ có trình độ tiểu học) và một tỷ lệ đáng kể không còn trẻ, từ 36 tuổi trở lên (35,84%).
Còn theo dự báo của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, trong thập niên tới, khả năng máy móc thay thế con người sẽ cao trong công đoạn sản xuất xơ, sợi hóa học (40-50%); các công đoạn sản xuất xơ, sợi tự nhiên, các công đoạn dệt, đặc biệt vải không dệt và khâu nhuộm, hoàn tất khả năng thay thế khá cao (30-40%). Công đoạn may, nhìn chung khả năng thay thế ở mức độ trung bình thấp (<30%) do có tính thời trang cao, nhu cầu phong phú, đa dạng về kiểu dáng, màu sắc, thị hiếu vùng miền. Sản xuất phụ liệu may cũng có nguy cơ “bị thay thế” khá cao (30-40%)…
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách của Bộ Công Thương, thời gian qua tuy trình độ công nghệ trong lĩnh vực may đã có nhiều thay đổi, tuy nhiên vẫn còn ở mức thấp và chậm so với các nước khác trong khu vực và thế giới. Cụ thể, hiện tỷ lệ sử dụng thiết bị công nghệ có trình độ cao, đặc biệt là sử dụng phần mềm trong thiết kế sản phẩm, quản lý sản xuất chỉ chiếm khoảng 20%; 70% thiết bị có công nghệ trung bình, 10% là công nghệ thấp.
Với ngành dệt, hiện nay hầu hết các thiết bị dệt thoi có trình độ trung bình khá nhưng công nghệ sử dụng trong dệt kim thì lại đang ở mức thấp. Hiện nay, đa số các máy móc của các doanh nghiệp (DN) thành viên thuộc Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã sử dụng trên 15 năm, chất lượng xuống cấp, tiêu thụ điện năng cao và hiệu quả sử dụng rất thấp.
Hơn nữa, tuy thiết bị dệt kim của các DN Việt Nam chiếm gần 60% trong tổng số máy nhưng lại chủ yếu là máy dệt kim phẳng, chỉ dùng để dệt màn tuyn, tất. Số máy móc dệt kim tròn dùng cho dệt vải lại quá ít, chỉ chiếm chưa đến 6% nhưng hiện hầu hết số máy này đã quá cũ kỹ, công nghệ lạc hậu nên chỉ có thể dệt vải cung cấp cho thị trường trong nước chứ không thể xuất khẩu…
Có thể nói, hiện ngành dệt may Việt Nam đang đứng ở “ngã ba đường”, bởi một khi công nhân giá rẻ hiện đã không thể so được với các nước như: Lào, Campuchia, Bangladesh… còn về công nghệ lại kém hơn nhiều so với các nước phát triển.
Trước tình cảnh này, để có thể tồn tại và cạnh tranh được với các đối thủ trước cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, ngành Dệt may Việt Nam trước tiên buộc phải đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động. Cụ thể là phải đầu tư tiếp cận công nghệ hàng đầu của thế giới, giảm lượng lao động trên một sản phẩm.
Song song với đó, cần có quy hoạch tổng thể đối với ngành Dệt may, nên đặt các máy sản xuất ở địa phương hay khu vực thuận lợi nhất về mọi mặt. Đặc biệt, cần có chính sách hỗ trợ trong quá trình đầu tư công nghệ bằng cách: Cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, giảm thuế đối với những DN đầu tư xanh, sạch trong sản xuất.
Chính phủ cũng cần tăng cường ứng dụng cơ nghệ thông tin trong đổi mới cơ chế chính sách, cải cách thủ tục hành chính, giúp DN dệt may tăng sức cạnh tranh để tích lũy nguồn lực đầu tư công nghệ mới theo xu hướng của Cách mạng công nghiệp 4.0.
Đối với DN, cần tìm hiểu kỹ về Cách mạng công nghiệp 4.0 và khả năng tác động đến ngành dệt may; Xác định các công việc trong dây chuyền sản xuất của DN có thể tự động hóa theo phương châm “không tự động hóa bằng mọi giá” để vừa áp dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động vừa quan tâm sử dụng nguồn lao động dồi dào của Việt Nam. Đồng thời, DN cần chuẩn bị nguồn lực để có thể từng bước hiện đại hóa các khâu đã lựa chọn; Nâng cao trình độ cán bộ quản lý kỹ thuật, công nghệ, xây dựng thương hiệu, áp dụng công nghệ in 3D trong thiết kế thời trang đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đơn lẻ của khách hàng...