Cần khơi thông nguồn "vốn vàng" trong dân

Đinh Nho Bảng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Kinh doanh Vàng Việt Nam

TCTC Online - Nhìn lại năm 2010, chúng ta đã không khỏi bất ngờ với diễn biến thị trường vàng dù ngay từ đầu năm, đã có rất nhiều nhận định của chuyên gia trong và ngoài nước về xu hướng tăng giá của kim loại quý này. Bước sang năm mới 2011, thị trường vàng vẫn là một dấu hỏi lớn khi mà còn rất nhiều yếu tố tác động đến sự “thất thường” của thị trường này.

“Đi ngược” với thế giới

Có lẽ, điểm nổi bật nhất của thị trường vàng Việt Nam trong năm qua, đó là luôn “đi ngược” với thế giới. Nếu như trên thế giới, kinh doanh vàng trên tài khoản bằng các sản phẩm phái sinh (mua bán có kỳ hạn; hợp đồng tương lai, quyền chọn; mua bán chứng chỉ quỹ đầu tư vàng…) chiếm khoảng 70-80%, kinh doanh vàng vật chất chỉ chiếm 20-30% toàn thị trường, thì ở nước ta, khi sàn vàng chính thức bị đóng cửa thì coi như quay về thị trường vàng vật chất hoàn toàn. Điều này bắt nguồn từ các chính sách của Nhà nước, chứ không phải do yêu cầu phát triển của thị trường, theo hướng khách quan cũng như yêu cầu của hội nhập.

Đáng chú ý là giá vàng trong nước luôn có sự cách biệt so với thế giới. Tuy có những thời điểm thấp hơn hoặc cao hơn song nhìn chung, phần lớn thời gian của năm 2010, giá vàng trong nước luôn cao hơn. Có những thời điểm giá vàng Việt Nam thấp hơn giá vàng quốc tế nên Việt Nam đã xuất khẩu vàng ra nước ngoài thu được nhiều ngoại tệ. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu vàng của Nhà nước chưa phù hợp, chưa đảm bảo sự liên thông của thị trường vàng Việt Nam với thị trường vàng quốc tế, cụ thể là việc xuất, nhập khẩu phải có giấy phép. Điều này đã gây thêm phức tạp cho quản lý thị trường.

Hiện nay không có nước nào trong khu vực và trên thế giới còn tồn tại giấy phép này. Hơn nữa, phải thừa nhận rằng, không phải cứ có giấy phép hoặc cho phép xuất, nhập khẩu vàng để bình ổn thị trường thì các doanh nghiệp sẽ thực hiện ngay bởi phần lớn doanh nghiệp kinh doanh vàng hiện nay dưới hình thức cổ phần và tư nhân, họ phải đặt lợi nhuận lên hàng đầu. Đó là chưa kể chính sách thuế mới đây đối với hoạt động xuất, nhập khẩu vàng cũng sẽ góp phần tạo ra khoảng cách giữa giá vàng Việt Nam và thế giới.

Sự cách biệt về giá cũng thể hiện giữa giá vàng vật chất và giá vàng trên tài khoản. Giá vàng vật chất bao giờ cũng có sự chênh lệch cao hơn so với giá vàng trên tài khoản do phát sinh các chi phí khác (phí vận chuyển hàng không, bảo hiểm, chế tác…),  nên tạo ra khoảng cách về mặt thời gian cũng như giá trị so với giá thị trường quốc tế. Vì thế, tới đây, về mặt chính sách nên định hướng cho thị trường phát triển theo hướng khuyến khích phát triển thị trường vàng trang sức để đáp ứng nhu cầu trong nước và phát triển mạnh cho xuất khẩu, không nên tập trung sản xuất vàng miếng. Nhìn sang quốc gia trong khu vực như Thái Lan, mỗi năm nước này thu về 2 -3 tỷ USD từ xuất khẩu vàng trang sức và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Trong khi đó, ở ta hiện nay, sản xuất 60% - 70% vàng miếng, 30-40% vàng trang sức. Tỷ lệ này nên dần dần thay đổi theo yêu cầu của thị trường.

Giá vàng sẽ lập thêm đỉnh cao mới

Năm 2010, vàng liên tục lập thêm những đỉnh mới khó ngờ. Câu hỏi đặt ra đối với giới đầu tư là giá vàng trong năm 2011 sẽ ra sao? Nghiên cứu những yếu tố tác động đến giá vàng, có thể khẳng định, trong năm 2011, giá vàng trong nước và thế giới sẽ tiếp tục đà tăng. Hiện nay có rất nhiều yếu tố ủng hộ cho điều này

Thứ nhất, nguy cơ lạm phát của thế giới vẫn đang còn rất cao do hậu quả của các gói kích cầu, cũng như chính sách nới lỏng tiền tệ của Mỹ và châu Âu, rồi nguy cơ về cuộc chiến tranh tiền tệ khó thoát khỏi.

Thứ hai, hậu quả của nợ công của châu Âu hiện rất nan giải.

Thứ ba, tình hình bất ổn chính trị vẫn đang rất phức tạp như nguy cơ chiến tranh Triều Tiên, Trung Đông...

Thứ tư, hiện nay cầu về vàng rất lớn. Do lạm phát, các ngân hàng trung ương, quỹ đầu tư vàng phải cơ cấu lại dự trữ và chuyển sang tỷ trọng vàng nhiều hơn. Các nước xuất khẩu dầu mỏ trước đây dữ trữ USD, Euro nay thay đổi cơ cấu tăng dự trữ vàng (do tiền mất giá). Các nước có dân số đông như Trung Quốc, Ấn Độ hay kể cả Việt Nam đều có nhu cầu nhập vàng rất lớn để phục vụ cho sản xuất vàng trang sức.

Thứ năm, cung về vàng lại đang bị thu hẹp lại, dù có tăng trưởng nhưng không tương xứng với tăng trưởng của cầu. Thống kê cho thấy, việc khai thác ngày càng sâu các mỏ vàng đang khiến cho sản lượng giảm đi, hàm lượng vàng trong quặng thu được ngày càng giảm (trước đây là 1,8 gram vàng/1 tấn quặng nay chỉ còn 0,6gram//tấn).

Thứ sáu, nhu cầu đầu tư về vàng hiện nay đang còn rất lớn. Cổ phiếu của các doanh nghiệp kinh doanh vàng đang có điều kiện phát triển và hấp dẫn nhà đầu tư. Phân tích biểu đồ chu kỳ giá vàng lần trước cho thấy, tại thời điểm ngay sau khi giá mặt hàng này chạm đỉnh, cổ phiếu của các công ty liên quan đến vàng chiếm 26% tổng giá trị cổ phiếu toàn cầu. Rõ ràng, vàng sẽ còn lên giá cho đến khi cổ phiếu của các công ty kinh doanh vàng chiếm một tỷ trọng tương xứng trong danh mục của các nhà đầu tư.

Nhiều chuyên gia dự đoán, mục tiêu trước mắt của giá vàng trong năm 2011 là 1500 USD/ounce và sau đó sẽ tăng lên 1700 USD/ounce. Cũng có những dự đoán gây sốc hơn: Giá vàng sẽ vượt lên mức 1900 USD/ounce, song có lẽ mức dao động xung quanh 1700 USD/ounce là khả thi nếu không có biến động lớn. Với giá vàng quốc tế như vậy thì giá vàng trong nước bình quân cũng sẽ tăng hơn năm 2010.

Băn khoăn cũ trong năm mới

Điểm nổi bật trong năm 2010 là nỗ lực bình ổn thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước rất cần thiết và đáng ghi nhận. Song thực tế cho thấy, sau những nỗ lực của cơ quan chức năng nhằm bình ổn giá vàng, hầu như hiệu quả chỉ phát huy được trong thời gian rất ngắn. Câu hỏi đặt ra: Liệu có tiếp tục điều này trong năm 2011?

Có thể khẳng định, trong bối cảnh ổn định vĩ mô được Chính phủ ưu tiên đặt lên hàng đầu thì mục tiêu bình ổn thị trường vàng là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, thành công của việc bình ổn này lại phụ thuộc vào sức mạnh nội tại của nền kinh tế. Việc ổn định giá vàng cần tính đến trong mối quan hệ tổng thể với các chính sách khác như lãi suất, tỷ giá, ngoại hối, niềm tin vào sức mua tiền đồng cũng như các kênh đầu tư khác (chứng khoán, BĐS…). Ở Việt Nam, 90 % vàng phụ thuộc vào nhập khẩu, nên giá phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, là quốc gia còn nghèo, dự trữ ngoại hối ít, vàng chủ yếu là nhập khẩu, nên muốn bình ổn thị trường vàng, chúng ta không nên kéo giá vàng trong nước xuống thấp hơn giá vàng thế giới. Việt Nam nên lấy giá vàng thế giới làm tham chiếu và giá vàng trong nước dao động xung quanh giá vàng thế giới.

Để làm được điều này, cần can thiệp bằng chính sách của Nhà nước, thông qua cơ chế xuất nhập khẩu và chính sách thuế để bản thân thị trường tự điều tiết theo quan hệ cung cầu. Như vậy, cơ quan chức năng không phải điều hành thị trường vàng theo “cơ chế” tình thế, còn Nhà nước lại thu được thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra, điều này cũng sẽ có đóng góp tích cực trong việc điều hành chính sách tiền tệ, cải thiện cán cân thanh toán và ngoại tệ, từ đó giảm được nhập siêu. Trên thực tế, nhờ tính thanh khoản cao, nên có những thời điểm, nền kinh tế nước ta đã xuất siêu, trong đó có đóng góp lớn từ xuất khẩu vàng.

Các chính sách thuế với vàng nên có tầm nhìn dài hạn hơn để xây dựng và phát triển một ngành công nghiệp vàng trang sức, kim hoàn đúng nghĩa, từ đó góp phần tạo ra việc làm cho hàng vạn lao động, thúc đẩy sự phát triển của các làng nghề. Đặc biệt, các chính sách cần tránh giải quyết những mục tiêu trước mắt mà không cân nhắc đến các mục tiêu dài hạn và theo hướng hội nhập, nếu không sẽ tạo ra những cú sốc, làm cho thị trường phát triển không ổn định, cản trở đến tiến trình hội nhập quốc tế.

Trở lại câu chuyện của sàn vàng, sau 3 năm ra đời và hoạt động, nhằm hạn chế rủi ro cho người dân, Chính phủ đã phải quyết định tạm dừng sàn vàng. Có thể khẳng định, động thái này hoàn toàn chính xác và cần thiết. Bởi trong hơn 3 năm đó, các cơ quan quản lý không đưa ra nổi được một quy chế quản lý hoạt động của sàn vàng. Sàn vàng như một con đường mới xây dựng, mà không hề có biển báo, chỉ vạch, ai thích đi đâu thì đi và tất nhiên hậu quả của nó rất khó tránh khỏi. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay của thế giới là giao dịch vàng trên tài khoản. Chúng ta không thể làm khác đi trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, đối với câu chuyện sàn vàng, chúng ta phải tự đặt ra câu hỏi và tìm câu trả lời cho riêng mình.

Với việc đóng tài khoản vàng ở nước ngoài của ngân hàng thương mại, người viết bài này cho rằng tài khoản vàng ở nước ngoài là điều kiện tối thiểu, cần thiết để các ngân hàng thương mại có đủ các công cụ phòng ngừa rủi ro trong hoạt động và từ đó họ có thể huy động nguồn vốn bằng vàng trong dân còn rất lớn cho đầu tư phát triển, huy động được nguồn vốn này chắc chắn hiệu quả hơn nhiều so với các khoản vay thương mại của nước ngoài. Vì vậy, không nên để nguồn vốn to lớn này nằm ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước thì hệ lụy của nó sẽ không biết thế nào?

Về vấn đề này, người viết rất đồng tình với ý kiến của ông Lê Đức Thúy, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính tiền tệ đã từng phát biểu: “Nếu đưa được vàng trong dân vào lưu thông chính thức trong hệ thống ngân hàng sẽ tạo nguồn vốn nhiều hơn, rẻ hơn cho nền kinh tế. Nhưng cơ chế chính sách phải làm cho người dân tin vào hệ thống ngân hàng để gửi vàng, phải có cơ chế chu chuyển vàng tạo sự lưu thông mạnh mẽ trên thị trường. Ngân hàng Nhà nước nắm được vàng khi cần vẫn có thể bơm ra - hút về, làm như vậy chắc chắn sẽ ổn định được thị trường, không để lãng phí 1.000 tấn vàng, tương đương hơn 40 tỉ USD vẫn còn đang trôi nổi trong dân.