Cần sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý ngân quỹ nhà nước
Thời gian qua, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã chủ động xây dựng và triển khai phương án điều hành ngân quỹ nhà nước (NQNN) an toàn, chủ động, minh bạch và hiệu quả. Tuy nhiên, đến nay, nhiều quy định đã không phù hợp, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, nhất là khi KBNN đang thực hiện Chiến lược phát triển đến năm 2030 để trở thành Kho bạc số.
Ngân quỹ nhà nước được quản lý, sử dụng hiệu quả
KBNN cho biết, từ năm 2017 đến nay, NQNN tạm thời nhàn rỗi đã được sử dụng hiệu quả, đúng theo các thứ tự ưu tiên: cho ngân sách nhà nước (NSNN) vay để bù đắp bội chi, trả nợ gốc và tạm ứng cho NSNN khi nguồn thu chưa tập trung kịp; gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại có mức độ an toàn cao, theo nguyên tắc đấu thầu cạnh tranh lãi suất; mua lại có kỳ hạn trái phiếu chỉnh phủ (TPCP).
Đồng thời, KBNN đã gắn kết chặt chẽ giữa quản lý NQNN với quản lý nợ công. Trong bối cảnh tồn NQNN tại KBNN cao, Bộ Tài chính đã chủ động giảm khối lượng phát hành TPCP và sử dụng nguồn NQNN tạm thời nhàn rỗi để cho ngân sách trung ương vay. Theo đó, đã giúp ngân sách trung ương giảm được chi trả lãi vay hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm…
Cụ thể, NQNN đã cho cho ngân sách trung ương vay để bù đắp bội chi cho ngân sách trung ương các niên độ 2018, 2019, 2020 và 2021 lần lượt là 45.500 tỷ đồng; 42.714 tỷ đồng; 62.131 tỷ đồng và 50.000 tỷ đồng. Tương ứng các năm này, kế hoạch phát hành TPCP được điều chỉnh giảm lần lượt là 55.000 tỷ đồng; 57.600 tỷ đồng; 49.000 tỷ đồng và 185.000 tỷ đồng.
Từ đó, kịp thời đáp ứng được nhu cầu cân đối của ngân sách trung ương trong bối cảnh cơ cấu lại nợ vay theo hướng giảm nợ vay nước ngoài, tăng huy động từ nguồn vay trong nước; đồng thời giảm chi phí vay của ngân sách trung ương và hỗ trợ công tác phát hành TPCP khi thị trường gặp yếu tố bất lợi.
Đáng chú ý, Bộ Tài chính cũng thực hiện mua lại có kỳ hạn TPCP với tổng giá trị giao dịch 7.000 tỷ đồng; số lãi thu được là 6 tỷ đồng. Mặc dù số lãi thu được từ hoạt động này chưa lớn, song theo KBNN, hoạt động này đã góp phần đa dạng hóa kênh huy động vốn ngắn hạn của các ngân hàng thương mại, tạo thêm nguồn vốn hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, nâng cao tính thanh khoản của TPCP trên thị trường thứ cấp, từ đó, tác động tích cực trở lại đối với hoạt động phát hành TPCP trên thị trường sơ cấp, giúp KBNN tổ chức huy động vốn được thuận lợi hơn.
Đến nay, KBNN đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống tài khoản thanh toán tập trung để đưa toàn bộ số dư NQNN từ các địa phương về trung ương và gửi toàn bộ tại Ngân hàng Nhà nước (không còn số dư tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại vào cuối ngày làm việc).
Hoạt động này làm cơ sở cho việc điều hành NQNN tập trung, thống nhất, nâng cao khả năng thanh khoản, đáp ứng kịp thời, đầy đủ mọi nhu cầu thanh toán, chi trả của NSNN và các đơn vị giao dịch.
Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 24/2016/NĐ-CP
Theo KBNN, mặc dù đạt nhiều kết quả khả quan, giúp cho nguồn NQNN được quản lý, sử dụng hiệu quả, nhất là nguồn NQNN tạm thời nhàn rỗi, nhưng trong thực tiễn triển khai cơ chế, chính sách quản lý NQNN còn có những hạn chế nhất định.
Đơn cử như Nghị định số 24/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ quản lý NQNN đã quy định nguyên tắc xác định hạn mức tạm ứng NQNN cho từng ngân sách địa phương cấp tỉnh. Thời gian qua, Bộ Tài chính đã ưu tiên sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi cho ngân sách trung ương khi gặp khó khăn và duy trì hạn mức tạm ứng cho 63 tỉnh, thành phố ở mức thấp.
Trên thực tế, từ năm 2020 đến nay, rất ít địa phương có nhu cầu tạm ứng NQNN (năm 2020 có 3 tỉnh, năm 2021 có 1 tỉnh, năm 2022 có 1 tỉnh). Vì vậy, theo KBNN, việc phân bổ hạn mức sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi chi tiết cho 63 tỉnh, thành phố hiện không còn phù hợp.
Hay như một số quy định về sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi của NSNN tại Nghị định số 24/2016/ NĐ-CP chưa phù hợp với Luật Quản lý nợ công năm 2017. Đồng thời, Nghị định số 24/2016/NĐ- CP quy định việc sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi để mua lại có kỳ hạn TPCP, tuy nhiên, chưa quy định KBNN được xử lý tài sản bảo đảm trong các giao dịch mua lại có kỳ hạn TPCP trong trường hợp nhà đầu tư vi phạm hợp đồng, không thanh toán tiền hoàn trả cho KBNN…
Sau khi tổng kết, đánh giá thực tiễn triển khai Nghị định số 24/2016/NĐ-CP, Bộ Tài chính đã giao KBNN dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung để trình Chính phủ. Tại dự thảo, KBNN đã đề xuất bổ sung quy định sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi cho NSNN vay phù hợp với quy định tại Luật Quản lý nợ công năm 2017; đồng thời giữ quy định được sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi để tạm ứng NSNN, phù hợp với quy định tại Luật NSNN.
KBNN cũng đề xuất bổ sung quy định về mục đích, điều kiện, thời hạn cho ngân sách trung ương, ngân sách địa phương cấp tỉnh được tạm ứng, vay từ NQNN; nguyên tắc gia hạn khoản vay NQNN của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương cấp tỉnh; thẩm quyền quyết định việc cho NSNN tạm ứng, vay NQNN của Bộ Tài chính.
Dự thảo bổ sung quy định cụ thể về sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi để mua bán lại TPCP: Loại TPCP được sử dụng trong giao dịch mua bán lại TPCP; đối tượng giao dịch; kỳ hạn mua bán lại; thực hiện đấu thầu cạnh tranh lãi suất, đảm bảo an toàn, công khai minh bạch; KBNN thực hiện giao dịch mua bán lại TPCP.
Ngoài ra, tại dự thảo Nghị định, KBNN cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về biện pháp phòng ngừa rủi ro đối với hoạt động sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi. Cụ thể là bãi bỏ quy định hạn mức sử dụng NQNN cho từng ngân sách địa phương cấp tỉnh tại Nghị định số 24/2016/NĐ- CP để phù hợp với thực tiễn về nhu cầu sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi của các địa phương.
Trong quá trình thực hiện, Bộ Tài chính sẽ quyết định sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi để tạm ứng, cho vay đối với từng địa phương; đảm bảo tổng số dư nợ tạm ứng, vay NQNN và các khoản dư nợ huy động khác của ngân sách địa phương cấp tỉnh nằm trong mức được phép huy động tối đa theo quy định tại Luật NSNN.
KBNN cho biết, với định hướng sửa đổi, bổ sung này, việc xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật về quản lý NQNN tiếp tục được đặt trong tổng thể hệ thống pháp luật tài chính, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo đảm cơ sở pháp luật đầy đủ cho hoạt động quản lý NQNN.