Nguyễn Sơn - Chủ tịch Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam:

Có thái độ ứng xử hợp lý đối với xu hướng giao dịch thuật toán


Tại Việt Nam, khung pháp lý thể chế lại chưa có các quy định cho giao dịch thuật toán, giao dịch tần suất cao phải được chấp thuận từ cơ quan quản lý và những quy định về hạn chế khối lượng, loại chứng khoán được giao dịch và ứng phó khi thị trường có những biến động lớn.

Tại Việt Nam, khung pháp lý thể chế lại chưa có các quy định cho giao dịch thuật toán, giao dịch tần suất cao phải được chấp thuận từ cơ quan quản lý và những quy định về hạn chế khối lượng, loại chứng khoán được giao dịch và ứng phó khi thị trường có những biến động lớn.

Xu hướng giao dịch thuật toán là tất yếu đối với các thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán (TTCK) nói riêng, với việc điện tử hoá các giao dịch, ứng dụng công nghệ  thông tin dựa trên các nền tảng ứng dụng công nghệ điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, việc các tổ chức kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp (công ty chứng khoán; quỹ đầu tư) sử dụng các giải pháp phần mềm giao dịch tự động để gia tăng quy mô giao dịch, giảm độ trễ trong thực hiện lệnh, kéo biện độ chênh lệch giá giữa các thị trường đến gần nhau là điều không tránh khỏi.

Tại Việt Nam, các giao dịch thuật toán bước đầu đã được một số công ty chứng khoán mua phần mềm giao dịch nước ngoài đưa vào sử dụng, tạo ra hiệu ứng giao dịch với khối lượng lớn, xử lý nhanh, đặc biệt là các giao dịch chênh lệch giá (arbitrage) gây nên bất bình đẳng trong các giao dịch giữa nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư tổ chức là các định chế tài chính chuyên nghiệp.

Trong khi, khung pháp lý thể chế lại chưa có các quy định cho giao dịch thuật toán, giao dịch tần suất cao phải được chấp thuận từ cơ quan quản lý và những quy định về hạn chế khối lượng, loại chứng khoán được giao dịch và ứng phó khi thị trường có những biến động lớn. Từ đó, gây khó khăn cho cơ quan quản lý trong việc quản lý, giám sát nhằm ngăn ngừa các hành vi thao túng, đảm bảo an toàn, công khai và minh bạch cho thị trường.

Thực tiễn trên thế giới, ngoài các thị trường phát triển lâu đời có hệ thống quản lý giám sát chặt chẽ  đối với các giao dịch thuật toán (Mỹ; Châu Âu), còn lại đa số các quốc gia vẫn thái độ dè dặt đối với các giao dịch này, một số quốc gia không khuyến kích; quy định ở mức độ chặt chẽ; hoặc cấm không cho phép giao dịch.

Tuy nhiên, việc cấm giao dịch thuật toán có thể dẫn đến kìm hãm sự phát triển của thị trường, hoặc tạo ra kẽ hở để một số công ty lách luật lạm dụng giao dịch, gây nên bất bình đẳng trong giao dịch. Do đó, việc nghiên cứu một cách tổng thể, nghiêm túc kể cả bài học thất bại trọng việc kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước là cần thiết, để từ đó có thái độ ứng xử hợp lý đối với loại giao dịch này. Theo đó, cần chú trọng một số vấn đề sau:

- Đánh giá nhu cầu và xu hướng, để từ đó xây dựng khung pháp lý đối với các giao dịch thuật toán và giao dịch tần suất cao, theo hướng chỉ cho phép các tổ chức tài chính có tiềm lực lực tài chính mạnh, công nghệ tốt để đầu tư hệ thống bài bản, các nhân viên nghiệp vụ phải được đào tạo bài bản, đạo đức nghề nghiệp tốt và có sự chấp thuận cho phép được giao dịch thuật toán từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước hoặc Sở Giao dịch Chứng khoán.

- Các tổ chức giao dịch thuật toán phải đăng ký sử dụng hệ thống với các Sở Giao dịch Chứng khoán, có hệ thống giao dịch kết nối trực tuyến với máy chủ và nhân viên quản lý tác nghiệp vận hành hệ thống, bảo trì thường xuyên hệ thống. Hệ thống nhận lệnh phải nhận diện và phân tách được các lệnh từ giao dịch thuật toán và gắn với các mã số nhất định. Các phần mềm giao dịch thuật toán phải có bản quyền và đăng ký với Sở Giao dịch Chứng khoán trước khi đưa vào hoạt động, đảm bảo thuật toán được sử dụng đáp ứng đầy đủ các điều kiện về giao dịch như quy định về biên độ giá; khối lượng giao dịch; tỷ trọng giao dịch.

- Hệ thống công nghệ thông tin cho vận hành thị trường từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đến các Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán có khả năng kiểm soát được các trạng thái của giao dịch thuật toán, như phân loại các lệnh giao dịch thuật toán với các lệnh giao dịch thông thường; các biện pháp hạn chế giao dịch thái quá (vượt ngưỡng), hoặc cơ chế kiểm soát tỷ trọng các lệnh giao dịch bị huỷ quá lớn/tổng lệnh giao dịch; cơ chế tạm dừng, hoặc ngắt mạch thị trường trong trường hợp có sự biến động về giá quá lớn lớn, hoặc có dấu hiệu thành viên thao túng.

- Xây dựng cơ chế tài chính phù hợp với các quy định về thuế, phí, giá dịch vụ giao dịch để điều tiết các giao dịch hợp lý. Nếu giao dịch tạo lập thị trường với tần suất mua, bán liên tục thì cần có cơ chế  thuế, phí thấp để hỗ trợ các nhà tạo lập. Hoặc khi thị trường biến động mạnh, cần hạn chế giao dịch thuật toán thì điều chỉnh thế, phí giao dịch tăng lên nhằm hạn chế mua vào bán ra, khuyến khích nắm giữ dài hạn.

- Cho phép các giao dịch bán khống có điều kiện (bán khống có đảm bảo), giao dịch trong ngày để hỗ trợ thêm các công cụ giao dịch. Đào tạo, tuyên truyền về các giao dịch thuật toán để nhà đầu tư có hiểu biết, hạn chế đầu tư cá nhân để giảm thiểu các rủi ro, gia tăng đầu tư thông qua các định chế quỹ đầu tư. Đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát, giám sát các giao dịch thuật toán để sớm phát hiện, ngăn ngừa các giao dịch không công bằng, giao dịch thao túng và các kịch bản ứng phó hợp lý khi xảy ra sự cố.

(*) Trích lược từ bài viết "Giao dịch thuật toán và hàm ý chính sách cho thị trường chứng Việt Nam" của Tạp chí Kinh tế - Tài chính Việt Nam.