Dấu hỏi sở hữu chéo trong trái phiếu ngân hàng

Theo Hoàng Hà/thoibaokinhdoanh.vn

Dù lãi suất trái phiếu ngân hàng thấp nhất trên thị trường hiện nay, không hấp dẫn các nhà đầu tư thông thường, nhưng hầu hết các lô phát hành đều được công ty chứng khoán trực thuộc các ngân hàng mua hết.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Theo đánh giá của CTCP Chứng khoán SSI trong báo cáo thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) tháng 8/2019, sự sôi động của thị trường TPDN tiếp tục được duy trì trong 8 tháng đầu năm 2019. Ước tính, tổng lượng TPDN chào bán là 129.016 tỷ đồng và lượng phát hành là 117.142 tỷ đồng, tỷ lệ phát hành thành công toàn thị trường là 90,8%, quy mô thị trường tăng mạnh lên mức khoảng 10,2% GDP.

Tăng sức nóng cả cung và cầu

Giới phân tích cho rằng chưa bao giờ thị trường TPDN sôi động với sức nóng tăng lên từ cả phía cung và phía cầu như hiện nay. Trong đó, ngân hàng vẫn là tổ chức phát hành lớn nhất và huy động thành công nhất.

Theo thống kê của SSI, 8 tháng đầu năm, các ngân hàng đã phát hành TPDN với tổng giá trị 56.060 tỷ đồng (chiếm 47,9%); Tiếp đó là các doanh nghiệp bất động sản phát hành 36.946 tỷ đồng (chiếm 31,5%); các doanh nghiệp phát triển hạ tầng phát hành 9.207 tỷ đồng (chiếm 7,9%); Các định chế tài chính phi ngân hàng phát hành 4.423 tỷ đồng (chiếm 3,8%)…

Ngân hàng cũng là nhóm có tỷ lệ phát hành thành công cao nhất (99,6%). Ngoại trừ SeABank có 2 lô phát hành ngày 8/5 và 19/6/2019 là 1.000 tỷ đồng và 900 tỷ đồng không bán hết (lượng phát hành tương ứng 950 tỷ đồng và 700 tỷ đồng), tất cả 10 ngân hàng thương mại (NHTM) còn lại đều bán hết 100% lượng trái phiếu chào bán.

Dẫn đầu nhóm phát hành TPDN là VPBank phát hành 13.860 tỷ đồng, bao gồm 300 triệu USD trái phiếu quốc tế. Tiếp đến là HDBank phát hành 11.600 tỷ đồng, ACB: 7.850 tỷ đồng, VIB: 6.450 tỷ đồng và LienVietPostBank là 6.100 tỷ đồng.

Theo tính toán, chỉ 5 nhà băng này đã chiếm tới 83% tổng giá trị phát hành TPDN của nhóm ngân hàng.

Giới chuyên gia nhìn nhận sự sôi động của thị trường là do Nghị định 163 có hiệu lực từ đầu tháng 2/2019 đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho thị trường TPDN.

Ngoài ra, các chính sách từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) như giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, giới hạn cho vay với một khách hàng không quá 15% vốn tự có, điều chỉnh hệ số rủi ro với cho vay bất động sản… đã tạo ra sự dịch chuyển của các DN từ kênh huy động tín dụng ngân hàng sang kênh phát hành trái phiếu.

Công ty chứng khoán đang “ôm” phần lớn trái phiếu ngân hàng
Công ty chứng khoán đang “ôm” phần lớn trái phiếu ngân hàng
 

Ai đang nắm giữ?

Bên cạnh đó, việc thông tin phát hành trái phiếu minh bạch hơn và sự tham gia tích cực của các trung gian phân phối là các ngân hàng, công ty chứng khoán (CTCK) đã khiến TPDN trở lên hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư.

“Sự gia tăng từ cả phía cung và phía cầu đã khiến thị trường TPDN Việt Nam trở lên sôi động hơn bao giờ hết”, SSI nhận định. 

Các chuyên gia SSI cho biết hầu hết trái phiếu ngân hàng có lãi suất cố định và trả lãi hàng năm. Lãi suất và kỳ hạn bình quân của nhóm ngân hàng là 6,75%/năm và 3,3 năm. Chỉ có 3.900 tỷ đồng trái phiếu nhóm này có lãi suất thả nổi, trong đó gồm 2.500 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 3 năm của ABBank có mức lãi suất năm đầu là 6,5%/năm và các năm sau bằng bình quân lãi suất tiết kiệm 12 tháng trả sau của 4 ngân hàng thương mại nhà nước, 1.400 tỷ đồng trái phiếu lãi suất thả nổi, còn lại là trái phiếu kỳ hạn dài 5-10 năm của BIDV, VietinBank, SeABank và VIB.

Đáng chú ý, so với mức lãi suất bình quân các nhóm còn lại, lãi suất nhóm ngân hàng thấp nhất thị trường hiện nay. Chẳng hạn, lãi suất trái phiếu của các DN bất động sản là 10,01%/ năm, nhóm phát triển hạ tầng: 9,79%/năm, nhóm định chế tài chính: 8,64%/năm… và chủ yếu thả nổi.

Tuy nhiên, theo SSI, dù lãi suất trái phiếu ngân hàng trung bình 6,72%/năm, thấp nhất thị trường hiện nay và không hấp dẫn các nhà đầu tư thông thường, nhưng các CTCK chủ yếu mua trái phiếu ngân hàng.

Cụ thể, CTCK là bên mua lớn nhất với tổng lượng mua 29.447 tỷ đồng, chiếm 25,4% tổng lượng phát hành, trong đó mua 22.900 tỷ đồng trái phiếu do các NHTM phát hành.

Theo đánh giá của SSI, lượng mua này quá lớn so với quy mô vốn của các CTCK. Ngược lại, bản thân các CTCK này cũng phải huy động trái phiếu để tăng vốn nên khả năng cao là các CTCK chỉ là trung gian, tham gia mua trên sơ cấp để bán lại trên thứ cấp chứ không phải là người mua cuối cùng.

Theo báo cáo tài chính bán niên 2019 của 18 NHTM niêm yết, trong 6 tháng đầu năm, lượng trái phiếu của các tổ chức tín dụng mà các NHTM nắm giữ tăng thêm tới 56,4 nghìn tỷ đồng – con số khá tương đồng với lượng trái phiếu các ngân hàng đã phát hành.

Từ những phân tích trên, SSI nhận định rất có thể các NHTM đã sở hữu chéo các trái phiếu của nhau, mục đích là để gia tăng nguồn huy động và nâng cao tỷ trọng vốn trung và dài hạn, đối phó với yêu cầu của NHNN giảm tỷ trọng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn.