Điểm sáng trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
(Tài chính) Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thời gian qua đã góp phần quan trọng vào ổn định hệ thống tài chính, kinh tế vĩ mô; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng để đẩy nhanh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng trong giai đoạn tiếp theo.
Những đột phá mới
Tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thời gian qua được triển khai quyết liệt, đúng lộ trình và được đánh giá là điểm sáng trong tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế. Nhờ các biện pháp cơ cấu lại tổ chức tín dụng (TCTD) cùng với điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, tăng cường quản lý thị trường tiền tệ, an toàn của hệ thống tín dụng được bảo đảm, nguy cơ gây đổ vỡ, mất an toàn hệ thống đã được đẩy lùi.
Nền kinh tế Việt Nam trong 30 năm chuyển đổi là một quá trình tái cơ cấu từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu với những bước đi vững chắc, thận trọng. Tuy nhiên, quá trình này đến nay vẫn diễn ra chậm, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng được coi là một trong ba đột phá chiến lược trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế. Từ khi thực hiện đổi mới đến nay, hệ thống ngân hàng đã trải qua một số lần tái cơ cấu. Đây là một quá trình không tách rời với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ.
Khi cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế xảy ra vào năm 2008, những thách thức mới từ xu thế toàn cầu hóa cộng với những yếu kém nội tại của nền kinh tế và bản thân hệ thống ngân hàng đã bộc lộ. Thách thức đó, đặt ra yêu cầu cơ cấu lại hệ thống ngân hàng một cách toàn diện, vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt, vừa đảm bảo cho hệ thống ngân hàng phát triển một cách an toàn, hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nghị Trung ương 3 (Khóa XI) đã đặt yêu cầu thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong thời kỳ kế hoạch 2011 - 2015, trong đó đề ra yêu cầu cơ cấu lại hệ thống tài chính mà trọng tâm là hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM). Theo quan điểm và định hướng chủ đạo này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã khẩn trương xây dựng Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015, được Bộ Chính trị thông qua và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 (Đề án 254).
Điểm sáng đáng ghi nhận trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trước hết phải đề cập tới là việc xác định những vấn đề cần tập trung tái cơ cấu và cách thức triển khai để giải quyết những vấn đề đó đã được NHNN nhìn nhận và đề ra trong Đề án 254 đúng hướng, có lộ trình phù hợp. Đồng thời, giải quyết được những vấn đề cấp bách trước mắt và đặt tiền đề cho sự phát triển an toàn, hiệu quả, bền vững về lâu dài.
Trong hai năm đầu (2011 - 2012), Đề án xác định tập trung giải quyết dứt điểm vấn đề trước mắt như xử lý tốt vấn đề thanh khoản của hệ thống và đánh giá phân loại sức khỏe của các TCTD theo từng nhóm để áp dụng những biện pháp tái cơ cấu thích hợp. Bên cạnh đó, yêu cầu các TCTD rà soát, củng cố, chấn chỉnh lại hoạt động theo hướng tập trung củng cố phát triển các hoạt động kinh doanh chính, loại bỏ các hoạt động kinh doanh kém hiệu quả; chuyển dịch mô hình kinh doanh theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng nguồn thu từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng thông qua việc phát triển đa dạng dịch vụ ngân hàng an toàn, hiệu quả; đặt ra việc các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước có kế hoạch thoái vốn đầu tư và chấm dứt kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng.
Để việc chấn chỉnh, củng cố, cơ cấu lại hệ thống các TCTD hạn chế tới mức thấp nhất tổn thất và chi phí cho ngân sách nhà nước, các giải pháp cơ cấu đã được triển khai theo hướng ưu tiên huy động nội lực để xử lý các vấn đề yếu kém là chính, lấy ngay lực lượng sẵn có trong hệ thống để tiến hành tái cấu trúc lại các tổ chức yếu kém. Sử dụng những tổ chức có quy mô lớn hơn và tình hình tài chính lớn hơn để tham gia vào việc tái cấu trúc các TCTD nhỏ hơn. Tiếp đến là thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt khuyến khích các TCTD nước ngoài hợp tác kinh doanh chặt chẽ với các TCTD Việt Nam, tham gia xử lý thêm các TCTD gặp khó khăn; hợp tác, liên kết phát triển sản phẩm, đổi mới quản trị và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc khuyến khích thực hiện giải pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại giữa các TCTD, lành mạnh hoá tài chính, tăng quy mô và chất lượng vốn tự có trên nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan theo quy định của pháp luật. NHNN cũng tạo điều kiện cho các TCTD sáp nhập, hợp nhất, mua lại thông qua tìm kiếm, giới thiệu đối tác, cung cấp thông tin cho các TCTD có nhu cầu tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật, pháp lý và thủ tục.
Theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, tính đến cuối năm 2014, tỷ lệ nợ xấu chỉ chiếm khoảng 3,8% trên tổng dư nợ. Kết quả này đã đóng góp tích cực vào việc cải thiện thanh khoản, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp...
Bộ phận không thể tách rời của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế
Trên thực tế, từ khi thực hiện Đề án 254 đến nay, đã giải quyết có hiệu quả những vấn đề cấp bách ngay từ cuối năm 2011, đó là tạo được sự ổn định hoạt động của thị trường tiền tệ, thanh khoản hệ thống đã được cải thiện, hỗ trợ tích cực cho công tác điều hành chính sách tiền tệ. Từng bước kiểm soát được lạm phát, hạ thấp mặt bằng lãi suất, tạo tiền đề thuận lợi để hoàn thành được nhiệm vụ của chương trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD đã được đề ra trong Đề án. Trên bình diện của toàn hệ thống đã có sự chuyển biến tích cực, đã giảm 7 tổ chức so với thời điểm cuối năm 2011; 4 NHTM nhà nước (Vietcombank, BIDV, MHB, VietinBank) đã cổ phần hóa và tìm được đối tác chiến lược nước ngoài tham gia đầu tư tăng vốn điều lệ và tham gia điều hành; 3 NHTM nhà nước lớn đã niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong hệ thống, các NHTM Nhà nước tiếp tục đóng vai trò chi phối cả về quy mô tài sản, huy động vốn và tín dụng, phát huy vai trò chủ đạo, luôn đi đầu trong việc giảm lãi suất huy động, lãi suất cho vay và góp phần quyết định hình thành mặt bằng lãi suất trên thị trường theo đúng định hướng của ngành Ngân hàng trong từng thời kỳ; tham gia xử lý các TCTD yếu kém và cho vay hỗ trợ thanh khoản đối với các TCTD trong giai đoạn tái cơ cấu, một số các NHTM cổ phần đã mua lại các công ty tài chính và đã tìm được các đối tác chiến lược trong nước.. . Nhờ đó, quy mô hoạt động của một số các NHTM có đối tác chiến lược, các NHTM sau hợp nhất, mua lại đã được nâng lên; cơ sở khách hàng được mở rộng, năng lực cạnh tranh và năng lực quản trị, điều hành được tăng cường; hầu hết các NHTM đã được phê duyệt phương án tài cơ cấu.
Cùng với những chuyển biến tích cực về số lượng cũng như phân bổ thị phần trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, cơ cấu mạng lưới tổ chức của hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đang có những chuyển biến thích hợp. Tình trạng phân bổ mạng lưới ngân hàng bất hợp lý giữa khu vực thành thị và nông thôn đang dần được khắc phục, việc cấp phép mở rộng mạng lưới của các TCTD ở thành thị đã giảm đáng kể. Các chi nhánh, phòng giao dịch được thành lập mới chủ yếu phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn vùng sâu, vùng xa hoặc an ninh, quốc phòng, góp phần nâng cao khả năng tiếp cận của người dân đối với dịch vụ ngân hàng ở khu vực này và phân bố lại mạng lưới của các TCTD hợp lý hơn.
Các giải pháp xử lý nợ xấu của giai đoạn này cũng được xây dựng phù hợp với tình hình thực tế của các TCTD, học tập kinh nghiệm của quốc tế và xác định rõ nguyên tắc là hạn chế sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Trên cơ sở đó, NHNN đề xuất Chính phủ cho thành lập Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), tham gia xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, chỉ đạo tất cả các tổ chức trong hệ thống xử lý nợ xấu bằng nguồn dự phòng, qua công ty xử lý nợ (AMC) của các TCTD. Nhờ sự nỗ lực, giải pháp phù hợp mà tỷ lệ nợ xấu đã giảm đáng kể, đến cuối năm 2014 theo báo cáo của các TCTD tỷ lệ nợ xấu chỉ chiểm khoảng 3,8% trên tổng dư nợ. Kết quả xử lý nợ xấu đã đóng góp tích cực vào việc cải thiện thanh khoản, nâng cao sự an toàn, lành mạnh, hiệu quả hoạt động của các TCTD, tạo điều kiện để các TCTD mở rộng tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp...
Bên cạnh đó, các giải pháp hỗ trợ tái cơ cấu cũng đã được triển khai quyết liệt. Cụ thể, từ việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về hoạt động ngân hàng; nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát; điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ đến việc tăng cường phối hợp với các bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về cơ cấu lại hệ thống các TCTD nhằm tạo ổn định tâm lý và sự đồng thuận trong xã hội.
Như vậy, có thể thấy rằng các giải pháp tái cơ cấu các TCTD đã được xây dựng phù hợp, đúng định hướng và được triển khai quyết liệt trong thực tế, nhưng không gây xáo trộn trong hệ thống và những bất ổn trong xã hội. Chính vì thế, kết quả tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đã được đánh giá là điểm sáng và là một bộ phận không tách rời của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế đã khẳng định, tái cơ cấu các TCTD là một trong ba trọng tâm cần thực hiện để hướng tới mục tiêu trong dài hạn. Đó là, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo lộ trình và bước đi phù hợp để đến năm 2020 cơ bản hình thành mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Kết quả tái cấu trúc hệ thống ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch hiệu quả và mạnh mẽ. Việc phát triển và hoàn thiện chức năng hệ thống ngân hàng phù hợp với yêu cầu mới của nền kinh tế, sẽ tạo cơ sở thực hiện tốt vai trò huy động và phân bổ nguồn lực theo tín hiệu thị trường và theo chỉ dẫn của các chính sách liên quan; đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về vốn và thanh toán thông suốt của các hoạt động kinh tế; hướng nền kinh tế tới mô hình tăng trưởng mới, phát triển đi vào chiều sâu thay thế mô hình phát triển chủ yếu theo chiều rộng, hiệu quả thấp trong giai đoạn vừa qua.
Tuy nhiên, là huyết mạch của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng phải thường xuyên chịu tác động từ những hạn chế, yếu kém của các bộ phận trong nền kinh tế. Việc xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng nói riêng và lành mạnh hóa hoạt động của khu vực ngân hàng nói chung sẽ khó đạt được kết quả cao khi hoạt động từ các khu vực khác của nền kinh tế, nhất là khi các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả; sự phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề trong nền kinh tế vẫn còn hạn chế, chưa tạo được bước tiến quan trọng để có thể tăng sức thu hút và sử dụng hiệu quả dòng vốn ngân hàng.