Gia tăng giá trị và lợi nhuận từ kinh tế sáng tạo


Việt Nam nằm trong top 10 nền kinh tế đang phát triển trên thế giới xuất khẩu hàng hoá sáng tạo hàng đầu với 14.153 triệu USD.

Thủ công mỹ nghệ là một trong những hàng hoá xuất khẩu thống trị của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam
Thủ công mỹ nghệ là một trong những hàng hoá xuất khẩu thống trị của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam

Tiềm năng của kinh tế sáng tạo được đánh giá là gần như không có giới hạn, vượt khoảng cách không gian, có sức chống chịu và khả năng phục hồi tốt hơn trong thời kỳ đại dịch.

Tại hội thảo tham vấn nghiên cứu “Phát triển kinh tế sáng tạo: Xu hướng, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị đối với Việt Nam” do Viện Nghiên cứu kinh tế quản lý Trung ương (CIEM) tổ chức, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng CIEM cho biết, khái niệm kinh tế sáng tạo đã ra đời và liên tục điều chỉnh trong hơn ba thập kỷ qua. Với tư duy thúc đẩy nền kinh tế sáng tạo, mỗi nền kinh tế cũng có thể tận dụng khung chính sách hiện có trên các mô hình kinh tế khác. Các dịch vụ sáng tạo ở không ít nền kinh tế được đánh giá là có sức chống chịu và khả năng phục hồi tốt hơn trong thời kỳ đại dịch.

Quan trọng hơn, theo TS. Trần Thị Hồng Minh, tư duy về kinh tế sáng tạo giúp hoàn thiện chính sách để các ý tưởng sáng tạo có đủ điều kiện, chu trình từ hình thành, sản xuất, cung ứng, phân phối và kể cả xuất khẩu. Từ đó, mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho nền kinh tế, lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp và thu nhập cao hơn cho người lao động.

Việt Nam đã nhận thấy tiềm năng phát triển của kinh tế sáng tạo. Theo thống kê, Việt Nam nằm trong top 10 nền kinh tế đang phát triển xuất khẩu hàng hoá sáng tạo hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, các thảo luận gần đây chủ yếu mang tính chất sơ khởi, chưa có cơ sở chặt chẽ trên nền tảng nghiên cứu khoa học bài bản, chưa có các hàm ý chính sách đủ chặt chẽ, khả thi và chưa có khái niệm cụ thể về kinh tế sáng tạo phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam.

Khảo sát của CIEM tại một số địa phương trong thời gian qua cho thấy cách hiểu khác nhau về kinh tế sáng tạo, thậm chí thiếu sự phân định rạch ròi với đổi mới sáng tạo. Do kinh tế sáng tạo còn tương đối mới, Việt Nam cũng gặp phải tình trạng thiếu dữ liệu cập nhật, thường xuyên và chi tiết để phân tích các nội dung liên quan.

Chia sẻ một số kết quả nghiên cứu ban đầu của CIEM về kinh tế sáng tạo, ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng ban Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM thông tin: trên thế giới, kinh tế sáng tạo phát triển theo xu hướng chủ yếu là xuất khẩu hàng hoá sáng tạo và xuất khẩu dịch vụ sáng tạo. 

Về xuất khẩu hàng hoá sáng tạo trên thế giới tăng từ 208 tỷ USD năm 2002 lên 524 tỷ USD vào năm 2020, trong đó châu Á là khu vực xuất khẩu lớn nhất từ năm 2007. Cơ cấu hàng hoá sáng tạo xuất khẩu đã sự thay đổi đáng kể từ năm 2006 đến nay. Xuất khẩu đĩa CD, DVD, băng, báo và tài liệu in khác giảm đáng kể, trong khi xuất khẩu các phương tiện truyền thông và ghi âm trò chơi điện tử tăng mạnh. Trong khi các nước phát triển thống trị xuất khẩu xuất bản, nghệ thuật thị giác và nghe nhìn thì các nước đang phát triển thống trị xuất khẩu thiết kế và thủ công mỹ nghệ.

Về xuất khẩu dịch vụ sáng tạo trên thế giới đã tăng từ 487 tỷ USD năm 2010 lên gần 1.100 tỷ USD vào năm 2020. Xuất khẩu các dịch vụ sáng tạo đã vượt xa xuất khẩu hàng hoá sáng tạo do sự gia tăng mạnh mẽ trong xuất khẩu phần mềm, dịch vụ nghiên cứu và phát triển cũng như số hóa một số hàng hoá sáng tạo. Các nước phát triển có thế mạnh trong xuất khẩu dịch vụ sáng tạo hơn các nước đang phát triển, song khoảng cách giữa hai nhóm quốc gia này đang dần thu hẹp.

Theo đánh giá của CIEM, Việt Nam đứng thứ 8 trên thế giới xét về giá trị hàng hoá xuất khẩu. Các ngành kinh tế sáng tạo gồm thủ công mỹ nghệ; thời trang và thiết kế; nghệ thuật ẩm thực; nghệ thuật biểu diễn; nghệ thuật tạo hình; phim và truyền thông; công nghệ thông tin và kỹ thuật phần mềm; du lịch và di sản văn hoá; âm nhạc và giải trí; xuất bản và văn học; sáng tạo nội dung số (blog, vlog, podcast và tạo nội dung trên mạng xã hội); tiếp thị và quảng cáo số.

Nhân tố hỗ trợ kinh tế sáng tạo tại Việt Nam là dân số trẻ, hiểu biết về công nghệ; chính sách tạo thuận lợi của Nhà nước; di sản văn hoá phong phú; quá trình số hoá diễn ra nhanh chóng; tăng cường hội nhập với kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng có nhiều chính sách, cơ chế ưu đãi cấp vốn cho các dự án khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới sáng tạo nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong thực hiện các dự án kinh tế sáng tạo tại Việt Nam.

Trên kinh nghiệm của quốc tế, CIEM sẽ hoàn thiện báo cáo nghiên cứu của mình để đề xuất hoàn thiện các thể chế chính sách, pháp luật nhằm tạo khuôn khổ pháp lý phù hợp cho sự phát triển kinh tế sáng tạo, tham mưu lồng ghép kinh tế sáng tạo trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế, chính sách xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.

Theo Hạnh Lê/diendandoanhnghiep.vn