Giải đáp vướng mắc về quyền sử dụng đất

Theo chinhphu.vn

Trả lời ý kiến ông Nguyễn Đức Thắng (TP. Hà Nội) về quyền sử dụng đối với đất đã ghi trong kế hoạch sử dụng đất tại địa phương, Bộ Tài nguyên và Môi trường có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Ông Thắng tham khảo Khoản 3, Điều 49 Luật Đất đai thấy có nội dung, diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất sau 3 năm chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh, hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích đối với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất.

Trường hợp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy định tại Khoản 2, Điều này.

Tuy nhiên, Điều 94 Luật Xây dựng lại hạn chế, chỉ cho xây dựng cấp phép tạm, chủ đầu tư không được đền bù khi thu hồi nhà đất.

Như vậy Điều 94 Luật Xây dựng đã hạn chế quyền xây dựng (không được đền bù tài sản xây dựng công trình khi thu hồi do chỉ được cấp phép xây dựng tạm) trong khi Khoản 2, Điều 49 Luật Đất đai không hạn chế quyền của người sử dụng đất. Ông Thắng hỏi, quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định nào?

Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:

Theo quy định tại Khoản 3, Điều 49 Luật Đất đai thì diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau 3 năm chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh, hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích đối với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất.

Trường hợp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy định tại Khoản 2, Điều 49 Luật Đất đai 2013.

Tại Điều 94 Luật Xây dựng quy định về điều kiện cấp giấy phép xây dựng có thời hạn, theo đó đối với khu vực có quy hoạch phân khu xây dựng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, công bố nhưng chưa thực hiện và chưa có quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chỉ được cấp phép xây dựng có thời hạn, chủ đầu tư cam kết tự phá dỡ công trình khi hết thời hạn tồn tại được ghi trong giấy phép xây dựng có thời hạn, nếu không tự phá dỡ thì bị cưỡng chế và chịu mọi chi phí cho việc cưỡng chế phá dỡ.

Sau 3 năm chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện thì không xảy ra việc thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch đã được công bố do đó không mâu thuẫn với quy định tại Điều 94 của Luật Xây dựng.

Như vậy, quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai, việc cấp giấy phép xây dựng có thời hạn thực hiện theo quy định tại Điều 94 Luật Xây dựng.