Giải pháp hạn chế nạn “tín dụng đen” tại Việt Nam

ThS. Đặng Vũ Khánh Vân - Học viện Ngân hàng – Phân viện Phú Yên

Trong thời gian vừa qua các cơ quan chức năng của Việt Nam đã đấu tranh triệt phá hàng loạt băng nhóm tội phạm "tín dụng đen" với quy mô lớn trên nhiều tỉnh, thành. Điều đó cho thấy mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác phòng chống nạn "tín dụng đen" nhưng hoạt động này vẫn tồn tại và ngày càng trở nên phức tạp hơn, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số như hiện nay. Ngoài hình thức "tín dụng đen" truyền thống còn xuất hiện các đối tượng sử dụng công nghệ cao trong hoạt động "tín dụng đen". Bài viết phân tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng "tín dụng đen" diễn ra ngày càng phức tạp và đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế "tín dụng đen" trong nền kinh tế.

Khái quát về "tín dụng đen"

"Tín dụng đen" là các hoạt động huy động và cho vay không theo quy định của pháp luật, với mức lãi suất cao vượt quá lãi suất pháp luật quy định. Hoạt động này được thực hiện bởi một số cá nhân, nhóm cá nhân hay tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính, thường không được cấp phép hoạt động chính thức vì vậy nó không chịu sự quản lý bởi các cơ quan nhà nước.

Theo khoản 13 Điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 quy định 03 loại nghiệp vụ của hoạt động ngân hàng bao gồm: nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

Khoản 14 Điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 quy định cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

Tuy nhiên, hiện nay, không có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể thế nào là "tín dụng đen". Trên thực tế, tín dụng đen có thể hiểu là một hình thức cho vay tín dụng với lãi suất cao hơn quy định của pháp luật từ các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động cho vay tiền nhưng không đăng ký kinh doanh và không được sự cấp phép của nhà nước (còn gọi là cho vay nặng lãi).

"Tín dụng đen" ra đời từ khoảng trống trong mảng thị trường của hệ thống tín dụng chính thức và là một biến tướng tiêu cực của hình thức tín dụng dân gian truyền thống như hụi, họ, đã hình thành, tồn tại và phát triển trong xã hội Việt Nam từ rất lâu.

Đặc điểm cơ bản của tín dụng đen là cho vay với lãi suất rất cao, thậm chí có trường hợp cao gấp hàng chục thậm chí cả trăm lần so với lãi suất ngân hàng, thủ tục đơn giản, nhanh gọn hơn rất nhiều so với đi vay tại các tổ chức tín dụng chính thức. Người vay có thể được yêu cầu có tài sản đảm bảo hoặc không, giao dịch chủ yếu dựa vào lòng tin hoặc các “quy tắc ngầm” và thường là các thỏa thuận miệng hoặc hợp đồng viết tay, trong đó không ấn định cụ thể mức lãi suất nhằm lách các quy định của luật pháp. Khi phát sinh mâu thuẫn trong quan hệ vay mượn thì các đối tượng cho vay thường dùng các biện pháp trái pháp luật hoặc thực hiện các hành vi phạm tội để đòi nợ hoặc thuê đòi nợ, siết nợ.

Hiện có 2 loại “tín dụng đen” gồm: Loại do một số đối tượng tìm cách đánh vào tâm lý hám lợi của một số người thực hiện huy động vốn với lãi suất cao để đầu tư vào các phương án kinh doanh lớn, lợi nhuận khủng, sau đó chiếm dụng hoặc chiếm đoạt. Loại thứ hai là một số người đứng ra làm trung gian, thu hút vốn và cho vay nặng lãi (lãi suất “cắt cổ”). Loại này thường diễn ra ở vùng sâu vùng xa, nơi mà người dân chưa có điều kiện tiếp cận với vốn tín dụng của các kênh chính thức.

Thực trạng "tín dụng đen"

Hình thức "tín dụng đen" ngày càng đa dạng, phức tạp và biến tướng hết sức tinh vi đặc biệt trong giai đoạn các hoạt động, giao dịch trong nền kinh tế đang được số hóa. Các hoạt động tín dụng đen có thể tồn tại dưới hình thức truyền thống như hụi, họ do một số cá nhân đứng ra làm trung gian huy động vốn và cho vay với lãi suất cao. Hoặc cũng có thể dưới hình thức công ty cầm đồ, công ty đòi nợ thuê, công ty tài chính. Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, các hoạt động cho vay trực tuyến qua các ứng dụng di động các app tài chính cũng có thể là hình thức biến tướng của tín dụng đen. Các đối tượng cho vay lãi nặng lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội để hành nghề (Sử dụng phần mềm cho vay trực tuyến, ứng dụng di động (app) hay các website cho vay, thậm chí là các app giả mạo các công ty tài chính để lừa người vay với thủ tục đơn giản và lãi suất cao). Đặc biệt, gần đây, qua đấu tranh triệt phá tội phạm tín dụng đen, cơ quan công an phát hiện có các đối tượng người nước ngoài đến Việt Nam thành lập, thu mua, thuê người đứng tên doanh nghiệp có chức năng cầm đồ, tư vấn, kinh doanh tài chính làm cho hoạt động tín dụng đen ngày cành tinh vi, phức tạp.

Từ thực tiễn các vụ vỡ do vay "tín dụng đen” cho thấy, đây là một hình thức giao dịch tài chính không chính thức gây ra nhiều thiệt hại không chỉ về mặt kinh tế mà còn gây ra nhiều vấn nạn xã hội đáng quan ngại. Theo báo cáo của Bộ Công an: Từ năm 2018 – 2022, số lượng vụ án liên quan đến tín dụng đen trên phạm vi cả nước tăng rất nhanh, cơ quan chức năng đã khởi tố, điều tra 1.565 vụ/2.989 bị can về tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự; 6.179 vụ/9.482 bị can về tội giết người, 4.871 vụ/ 7.789 bị can về tội cướp tài sản, 618 vụ/1.186 bị can về tội cưỡng đoạt tài sản, trong đó có nhiều vụ án liên quan đến “tín dụng đen”, đòi nợ thuê. Trong năm 2023, Cục Cảnh sát hình sự và Công an các địa phương trên toàn quốc đã phát hiện 1.671 vụ, 2.726 đối tượng liên quan đến “tín dụng đen”. Trong đó, đã khởi tố 1.062 vụ và 1.836 đối tượng.

Những vụ vỡ nợ đã trực tiếp gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế cho rất nhiều gia đình có người tham gia hoạt động huy động và cho vay với lãi suất cao, làm ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ gia đình và xã hội, thậm chí có cả những hậu quả đáng tiếc về tính mạng của người tham gia hoạt động tín dụng đen. Vì nguyên tắc hoạt động của "tín dụng đen” là diễn ra "ngầm” giữa các cá nhân với nhau, chủ yếu dựa vào lòng tin mà không thông qua thủ tục hay tổ chức chính thức nào có tư cách pháp nhân để người tham gia có thể nhận được sự giám sát và bảo hộ của pháp luật nếu rủi ro xảy ra. Đồng thời, từ tín dụng đen còn làm phát sinh nhiều loại tội phạm như: lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, bắt giữ người trái pháp luật, cưỡng đoạt tài sản, giết người. Ngoài ra, tín dụng đen phát triển còn làm ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng. Tác động dễ thấy nhất là hoạt động này khiến các cơ quan điều hành khó khăn trong việc kiểm soát được nguồn cung tiền, mối quan hệ cung – cầu tín dụng của nền kinh tế, ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Nguy hại hơn, nếu tín dụng đen bị vỡ, tổn thất sẽ không dừng lại ở vấn đề kinh tế, nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tin của người dân, đe dọa sự an toàn của cả hệ thống tài chính.

Thách thức trong việc loại bỏ "tín dụng đen"

Thứ nhất, so với tín dụng chính thức thì tín dụng đen có thủ tục cho vay đơn giản, nhanh gọn hơn, thậm chí không cần tài sản thế chấp, đặc biệt không bị ràng buộc bởi thủ tục pháp lý. Khi có nhu cầu, bất kỳ ai cũng có thể tiếp cận với các tổ chức cho vay lãi suất cao này. Thủ tục vay và cho vay trong tín dụng đen vô cùng đơn giản, chỉ cần viết tay, đánh máy thể hiện nội dung vay mượn giữa bên cho vay và bên vay. Chính sự đơn giản này đã tăng khả năng được vay vốn và chính vì thế thời gian “nhận được tiền” của khách hàng cũng nhanh hơn rất nhiều so với đi vay ở các tổ chức tín dụng. Dù lãi suất phải trả thường rất cao, không được pháp luật bảo vệ đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhưng nhiều khách hàng vẫn quyết định vay bởi nhu cầu của họ nhanh chóng được giải quyết, nhất là trong lúc nguy cấp.

Thứ hai, do khoảng cách về địa lý, do giới hạn của các tiêu chuẩn cấp tín dụng nên hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng chính thống mặc dù đã được mở rộng so với trước đây nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu vốn của toàn bộ nền kinh tế, nhất là đối với các khu vực xa xôi, hẻo lánh. Chính vì thế, hiện vẫn còn có một bộ phận dân cư nhất là dân cư ở vùng sâu vùng xa, người lao động có thu nhập thấp hoặc người không đủ điều kiện để tiếp cận nguồn tín dụng chính thức thì khi phát sinh nhu cầu vốn vẫn phải tìm đến và chấp nhận những khoản tín dụng đen.

Thứ ba, do sự kiểm soát lỏng lẻo, kém hiệu quả của các cơ quan chức năng như chính quyền địa phương, cơ quan công an, dẫn đến không kịp thời phát hiện và triệt phá được các đường dây “tín dụng đen” để bảo vệ quyền lợi người dân.

Thứ tư, do luật pháp quy định chưa chặt chẽ, còn có những “khoảng trống” pháp lý cộng thêm chế tài đối với những chủ thể tham gia “tín dụng đen” vẫn chưa đủ mạnh nên giao dịch này vẫn phát triển mạnh. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, xuất hiện một số phương thức, thủ đoạn mới, biến tướng, lợi dụng công nghệ cao, núp bóng doanh nghiệp thực hiện các hành vi cho vay khiến người dân dễ dàng bị sập “bẫy” tín dụng đen

Thứ năm, là do yếu tố văn hóa vay nợ và sự thiếu thông tin của người dân. Tín dụng đen đã, đang và vẫn còn tồn tại song song với tín dụng chính thức, vì nhu cầu, văn hóa vay mượn lẫn nhau trong dân cư.

Giải pháp hạn chế "tín dụng đen"

Để hạn chế và tiến tới xóa bỏ "tín dụng đen" cần tập trung vào các nhóm giải pháp sau:

Một là, tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của người dân thông qua việc đổi mới, mở rộng hoạt động hệ thống tài chính, ngân hàng.

Để hạn chế tình trạng tín dụng đen, trước hết cần có sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng hơn của thị trường tài chính - tín dụng về tổ chức, chủng loại, quy mô, thủ tục và chất lượng sản phẩm tín dụng đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Việc này sẽ tăng khả năng tiếp cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp. Cụ thể là các ngân hàng cần đa dạng các loại hình cho vay, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng với thủ tục nhanh gọn và thuận tiện, đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp phục vụ đời sống, tiêu dùng của nhân dân. Song song với việc đa dạng hóa sản phẩm tín dụng thì việc mở rộng hệ thống các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính ngân hàng nhất là đến các vùng nông thôn xa xôi cũng là giải pháp quan trọng góp phần tăng khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của của người dân. Bên cạnh hệ thống ngân hàng, cần tăng cường sự hiện diện của hệ thống các quỹ tín dụng nhân, hệ thống tổ chức tài chính vi mô, các công ty tài chính tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu tín dụng của người dân vay món nhỏ, lẻ cho mục đích tiêu dùng nhanh…

Hai là, tiếp tục hoàn thiện các quy định, chế tài xử phạt "tín dụng đen" nghiêm minh, thích đáng và rõ ràng. Theo các chuyên gia, trong bối cảnh công nghệ phát triển nhanh như hiện nay, cơ quan quản lý cần nhanh chóng sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động tài chính vay trực tuyến, vay ngang hàng... nhằm hạn chế tối đa việc các đối tượng lợi dụng để hoạt động tín dụng đen. Ở góc độ chế tài, các bộ ngành liên quan cần xem xét, kiến nghị sửa đổi các quy định của Điều 201 Bộ luật Hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, theo hướng tăng nặng hình phạt tương ứng với số tiền thu lời bất chính. Bên canh đó, các đơn vị chức năng như cơ quan công an, cơ quan thanh tra giám sát hoạt động ngân hàng cũng cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng, trung gian thanh toán, các ví điện tử không để các đối tượng móc nối hoạt động "tín dụng đen", kịp thời xử lý các vi phạm theo quy định.

Ba là, chính quyền các địa phương, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp các người dân và doanh nghiệp nâng cao hiểu biết pháp luật, nhận biết phương thức, thủ đoạn của các đối tượng hoạt động Tín dụng đen. Dù pháp luật có quy định rõ ràng, cụ thể, nghiêm minh đối với việc xử lý hành vi cho vay nặng lãi, hệ thống các ngân hàng hay tổ chức tài chính có nới lỏng điều kiện cho vay thì tín dụng đen vẫn còn cơ hội phát triển nếu người dân vẫn còn nhu cầu vay. Để ngăn chặn có hiệu quả thì cần triệt tiêu triệt để nguyên nhân trực tiếp phát sinh tín dụng đen đó chính là nhu cầu vay của người dân, mà giải pháp chủ yêu là nâng cao nhận thức của người dân về tín dụng đen, nhận thức về pháp luật để tự mình phòng tránh.

Tóm lại, hạn chế và tiến tới xóa bỏ hoạt động tín dụng đen nhằm đảm bảo trật tự và xã hội, an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng đang là yêu cầu bức thiết đặt ra cho các cơ quan chức năng. Để thực hiện được việc này, cần phải có thời gian, có sự phối hợp đồng bộ từ nhiều phía như: chính quyền địa phương, cơ quan công an, các nhà làm luật, hệ thống tài chính ngân hàng và quan trọng hơn nữa là từ sự hiểu biết và tự giác không tham gia tín dụng đen của người dân và doanh nghiệp.

Tài liệu tham khảo:

  1. Thủ tướng Chính phủ (2023), Công điện số 766/CĐ-TTg ngày 24/8/2023 về việc tăng cường các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hoạt động “tín dụng đen”;
  2. Thạch Bình (2023), Thúc đẩy vay tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen, Thời báo ngân hàng;
  3. Đỗ Đức Hồng Hà (2022), Vai trò của Ngân hàng Ndhà nước Việt Nam trong phòng chống "tín dụng đen" và tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, Tạp chí Ngân hàng số 14 ( tháng 7 năm 2022).
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2024