Giải pháp phát triển ổn định và lành mạnh hệ thống ngân hàng
(Tài chính) Môi trường và thể chế hoạt động của hệ thống ngân hàng những năm gần đây tuy có những chuyển biến tích cực với những thành công đáng ghi nhận, nhưng vẫn dễ bị tác động và tổn thương bởi các bất ổn của kinh tế vĩ mô. Bài viết đề cập đến một số bất ổn của hệ thống ngân hàng, những tác động của chúng và đề xuất giải pháp khắc phục.
Sự ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng mỗi quốc gia ngày càng giữ vai trò quan trọng; thậm chí, quyết định đối với ổn định nền kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, môi trường và thể chế hoạt động của hệ thống ngân hàng có những chuyển biến đáng ghi nhận về quản trị nội bộ; bộ máy tổ chức, ứng dụng công nghệ và sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, các bất ổn của kinh tế vĩ mô đã gây nhiều rủi ro và làm tổn thương hệ thống ngân hàng ở mọi khía cạnh. Hệ thống ngân hàng là “nạn nhân” của sự bất ổn kinh tế, rồi đến lượt nó lại là “thủ phạm” tác động vào những bất ổn này.
Một số bất ổn của hệ thống ngân hàng
Nợ xấu tăng cao, gia tăng rủi ro hệ thống
Kể từ đầu năm 2008 đến nay, nền kinh tế luôn phải đối mặt với những khó khăn, sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu, cơ sở hạ tầng trở thành điểm nghẽn, lạm phát tăng cao tới 22% vào cuối năm 2008, rồi giảm sâu xuống 4,09% năm 2014. Để kiềm chế lạm phát và những bất ổn vĩ mô, các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ được điều hành theo hướng thắt chặt, đã có tác động mạnh tới lạm phát và sức cầu của nền kinh tế. Đặc biệt là tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (DN), ngân hàng. Đối với không ít DN, vốn cho sản xuất kinh doanh chủ yếu vay ngân hàng, trong khi lãi suất cho vay của các ngân hàng luôn ở mức cao (18%- 25% vào năm 2010, 2011, sau đó giảm dần xuống mức 15% -17% vào năm 2012, 2013) và 8% - 12% vào năm 2014. Với lãi suất vay cao, thị trường đầu ra cho sản bị thu hẹp do nhiều nguyên nhân, hàng tồn kho tăng cao, nhiều DN rơi vào tình trạng khó khăn. Mỗi năm có khoảng vài chục ngàn DN giải thể, dừng hoạt động. Năm 2014, mặc dù nền kinh tế có nhiều biểu hiện được phục hồi, nhiều chính sách và biện pháp hỗ trợ DN đã được triển khai, thị trường tài chính có một số chuyển biến tích cực nhưng số DN giải thể, dừng hoạt động vẫn cao. Đáng chú ý, một số DN có quy mô trung bình và lớn tuy đã cố gắng cầm cự trong giai đoạn khó khăn, nhưng đến nay vẫn phải ngừng hoạt động có thời hạn, giải thể... Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng trả nợ ngân hàng, tương ứng với việc nợ xấu giữa DN với ngân hàng ngày càng cao.
Trong kinh doanh ngân hàng, để xảy ra nợ xấu, trước hết là trách nhiệm của ngân hàng thương mại (NHTM) và khách hàng vay vốn. Tuy nhiên, khi nợ xấu đã ở mức cao, kéo dài, số lượng DN không có vốn sản xuất kinh doanh phải dừng hoạt động, thậm chí phá sản sẽ tiếp tục gia tăng. Như vậy, nền kinh tế sẽ mất đi một lượng vốn lớn, dòng tiền trong nền kinh tế không lưu thông được, hệ thống ngân hàng tiếp tục bất ổn. Điều này đã và đang đe dọa đến sự phát triển ổn định của hệ thống ngân hàng. Do đó, để giải quyết nợ xấu không chỉ là việc riêng của các NHTM mà còn là tránh nhiệm của khách hàng và của cơ quan quản lý.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra phương án xử lý nợ xấu qua Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC). Đến cuối năm 2014, VAMC đã mua được 98.000 tỷ đồng nợ xấu của gần 40 tổ chức tín dụng (TCTD). Hướng đi này đã được đánh giá là hướng đi đúng và ghi nhận nỗ lực của NHNN trong việc giúp các NHTM có bảng cân đối tài sản “sạch” hơn, có điều kiện giải ngân các khoản vay mới cho DN. Vậy nhưng, việc xử lý nợ xấu đã mua rất ít, tính đến nay VAMC mới chỉ xử lý được 4.161 tỷ đồng, chiếm 4,2% số nợ xấu đã mua. Trong số nợ xấu được xử lý, có khoảng 50% là những khoản nợ khách hàng tự nguyện trả, số còn lại là do các NHTM cùng VAMC bán tài sản bảo đảm. Như vậy, thực chất VAMC vẫn chỉ là “kho giữ nợ xấu” của các TCTD. Đây là điểm nghẽn chính đối với việc đẩy mạnh hơn tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế năm 2015; đặc biệt, hướng dòng vốn đến các DN vừa và nhỏ, DN tư nhân và hộ gia đình cho sản xuất kinh doanh.
Xét riêng tín dụng bất động sản (BĐS), vào những năm tăng trưởng tín dụng nóng, một lượng vốn tín dụng lớn được đầu tư vào BĐS. Năm 2009, NHNN đã thấy rõ vấn đề này và đã đưa BĐS vào lĩnh vực hạn chế cho vay. Mặc dù vậy, dư nợ BĐS năm 2010 vẫn là 235.276 tỷ đồng, trong số này có 60,63% vốn tín dụng tạo cung BĐS và 39,37% vốn tín dụng tạo cầu BĐS. Dư nợ BĐS có giảm chút ít vào năm 2011 và năm 2012 nhưng lại tăng mạnh vào năm 2013 với 262.207 tỷ đồng, trong đó 68,36% vốn tín dụng tạo cung và 31,64% vốn tín dụng tạo cầu. Nguồn vốn tín dụng vào thị trường BĐS theo xu hướng tạo cung nhiều hơn tạo cầu trong một thời gian dài là nguyên nhân dẫn đến mất cân đối lớn giữa cung và cầu BĐS. Trong khi giá BĐS được đẩy lên rất cao, tính thanh khoản của thị trường thấp, dẫn đến nợ xấu tín dụng bất động sản tăng nhanh. Nhiều NHTM cho rằng trong tổng số nợ xấu, trên 70% nợ xấu là từ cho vay, đầu tư BĐS. Vì thế, gỡ khó khăn cho BĐS cũng là cách giải quyết nợ xấu. Ngay từ năm 2013 đến nay, nhiều gói giải pháp, chính sách tháo gỡ khó khăn cho thị trường này (gói 30.000 tỷ đồng của nhà nước; các gói hỗ trợ người mua nhà ở thương mại, điều chỉnh chính sách về BĐS, nhà ở, an sinh xã hội sát với thực tiễn…) nên nợ xấu BĐS và hàng tồn kho giảm. Đến cuối năm 2014, tồn kho BĐS còn 82.295 tỷ đồng, giảm 24,1% so với đầu năm 2013 và giảm 12,8% so với đầu năm 2014.
Các cơn “sốt” nóng BĐS vào những năm 2008– 2010, sau đó là “đóng băng” vào những năm 2011- 2013 là những minh chứng rõ nét về sự méo mó của thị trường trong việc phân bổ nguồn vốn. Thị trường BĐS phụ thuộc không nhỏ vào yếu tố cung cầu tín dụng. Khi thị trường BĐS hưng thịnh, vai trò của NHTM rất lớn nhưng khi thị trường BĐS đóng băng ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM cũng rất lớn. Khắc phục tình trạng này, không còn cách nào khác ngoài việc tập trung xử lý nợ xấu thì phải đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu NHTM một cách hiệu quả.
Vấn đề sở hữu chéo trong ngân hàng
Một số NHTM Việt Nam đã có quy mô khá lớn so với một số NHTM trong khu vực, tuy nhiên do tính minh bạch vẫn yếu, gây nên tình trạng sở hữu chéo. Việc nắm giữ cổ phần của nhau trong hoạt động ngân hàng đã đến mức trầm trọng, phát sinh nhiều tiêu cực và phức tạp. Tình trạng vốn ảo, đánh giá và phân loại thiếu chính xác, tài sản có rủi ro, tăng hệ số an toàn vốn (CAR) không thực chất, vô hiệu hóa những quy định về giới hạn tín dụng, méo mó hoạt động quản trị ngân hàng, né tránh giám sát của cơ quan quản lý nhà nước… có nguyên nhân sâu xa từ sở hữu chéo. Trong một số trường hợp sở hữu chéo đã làm cho dòng vốn tín dụng lòng vòng trong ngân hàng, chuyển nợ xấu thành nợ bình thường, nợ xấu thành vốn góp...
Hành vi này đã và đang đe dọa mức độ an toàn của cả hệ thống. Chính sở hữu chéo đã giúp không ít ông chủ ngân hàng có điều kiện sở hữu hoặc nắm cổ phần chi phối ở một vài ngân hàng khác, cũng như có DN trực tiếp hoặc giám tiếp sở hữu ngân hàng. Khi DN có cổ phần lớn, có khả năng chi phối hoạt động ngân hàng, đã dễ dàng sử dụng khoản lớn vốn huy động trong xã hội, cho mục đích của DN. Hậu quả một số ngân hàng yếu kém, bất ổn, nợ xấu lớn có những nguyên nhân sâu xa từ sở hữu chéo. Nếu không xử lý mạnh sở hữu chéo, khó có thể nắn dòng vốn từ những ngân hàng này vào lĩnh vực cần vốn cho sản xuất, kinh doanh.
Hệ thống công nghệ của không ít ngân hàng chưa đồng bộ
Điều này khiến các dữ liệu để quản lý rủi ro thanh khoản, lãi suất thiếu nhất quán, gây khó khăn cho công tác phân tích, dự báo, đề xuất chiến lược quản lý rủi ro thanh khoản, lãi suất phù hợp. Việc quản lý rủi ro thanh khoản tại một số ngân hàng chưa hiệu quả không chỉ bắt nguồn từ những bất ổn vĩ mô mà còn do các nguyên nhân nội tại của chính các NHTM. Mặc dù quản lý thanh khoản đã được NHNN quy định trong các văn bản hiện hành nhưng do tính tuân thủ chưa nghiêm, một số chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nên không ít ngân hàng đã phải trả giá đắt. Việc dự báo những thay đổi của môi trường kinh doanh tại các NHTM cũng chưa được quan tâm đúng mức, một phần cũng ảnh hưởng từ sự thay đổi khó lường của cơ chế chính sách, khiến ngân hàng bị động trước những biến động đột ngột của thị trường, ảnh hưởng đến khả năng quản lý và sử dụng vốn của ngân hàng.
Những hạn chế nêu trên, có nguyên nhân từ bất ổn vĩ mô, hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, còn có nguyên nhân từ ngân hàng: Tính tuân thủ còn yếu, trình độ quản trị điều hành và kiểm tra giám sát hoạt động ngân hàng của các nhà quản trị ngân hàng chưa cao.
Một số giải pháp phát triển ổn định và lành mạnh hệ thống ngân hàng
Từ nay đến năm 2020, kinh tế thế giới có những chuyển động đáng kể, toàn cầu hoá về thương mại, đầu tư tài chính và tiền tệ sẽ diễn ra mạnh mẽ. Các chuẩn mực quốc tế, nguyên tắc và luật chơi của các định chế quốc tế lớn sẽ trở thành nền tảng chi phối đến sự vận động, phát triển của nền kinh tế thế giới. Khu vực tài chính toàn cầu có thể sẽ chịu sự điều chỉnh nhiều hơn bởi các khuôn khổ pháp lý mới. Xu hướng cải cách và hoạt động của hệ thống ngân hàng thế giới trong năm 2015 cũng như 5 năm tới là: (i) Sáp nhập, mua lại diễn ra mạnh mẽ; (ii) phát triển mạnh dịch vụ ngân hàng bán lẻ và các dịch vụ ngân hàng hiện đại và (iii) tăng cường giám sát, quản lý rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng. Trong bối cảnh đó, việc đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc các NHTM Việt Nam, hoàn thiện hành lang pháp lý, xử lý nợ xấu và sở hữu chéo để ổn định hệ thống, nâng cao năng lực cạnh tranh… là những biện pháp quan trọng hiện nay. Cụ thể:
Một là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, văn bản pháp luật theo chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro; các giới hạn cho vay, đầu tư và thanh toán, xác định giá trị các tài sản phi tín dụng, rà soát vốn thực có của các NHTM để giám sát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thực hiện quản trị rủi ro theo Basel II. Thông tư 36/2014/TT-NHNN có hiệu lực từ 1/2/2015 đưa ra các chuẩn mực mới chặt chẽ hơn, từng bước hạn chế sự chi phối, thao túng, lợi ích nhóm thông qua sở hữu chéo; giúp các ngân hàng hoạt động an toàn hơn cần được thực hiện đúng lộ trình và triệt để. Thông qua vai trò của Nhà nước, điều tiết khắc phục những khuyết tật của thị trường theo hướng tạo môi trường lành mạnh cho các ngân hàng hoạt động theo luật, không tạo ra những rủi ro cho ngân hàng bằng cơ chế chính sách hay các mệnh lệnh hành chính; sử dụng cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm cho các ngân hàng tham gia thị trường tuân thủ “luật chơi” đã quy định. Đây là nền tảng rất quan trọng, đảm bảo cho nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển ổn định và hội nhập hiệu quả.
Hai là, đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng gắn với xử lý sở hữu chéo. Đối với các NHTM cổ phần yếu kém đã thực hiện sáp nhập hoặc tự nâng cấp... NHNN cần giám sát lộ trình cụ thể theo các tiêu chí cần đạt được sau tái cấu trúc (về vốn, trình độ quản trị, công nghệ thông tin, mức độ an toàn vốn, tính minh bạch). Đối với các NHTM cổ phần Nhà nước, cần tiếp tục giảm tỷ trọng phần vốn nhà nước ở mức hợp lý theo lộ trình. Nhà nước chỉ nên nắm giữ từ 51% - 65% cổ phần tùy theo quy mô của từng ngân hàng. Một khi Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối từ 70%-90% thì các NHTM cổ phần Nhà nước vẫn không có sự bứt phá; tính minh bạch trong quản trị nội bộ, tránh nhiệm giải trình với cổ đông vẫn hạn chế. Giảm sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động theo quy luật thị trường và chịu tránh nhiệm về hoạt động của mình trước các cổ đông, trong đó có cổ đông Nhà nước.
2015 được coi là năm nhiều triển vọng cho việc sáp nhập giữa các ngân hàng có quy mô lớn với các ngân hàng quy mô nhỏ hơn. Đây không chỉ là động thái để tăng quy mô, mở rộng kênh phân phối, tận dụng thế mạnh của mỗi bên mà còn giải quyết vấn đề về sở hữu cổ phần của một ngân hàng tại NHTM theo quy định của Thông tư 36/2014/TT-NHNN.
Hiện nay, để lành mạnh hoạt động ngân hàng, cần tập trung giải quyết nợ xấu. Hoạt động của VAMC chỉ là một trong những giải pháp tình thế, quan trọng là cần nhanh chóng tháo gỡ về cơ chế trong việc mua bán nợ xấu theo hướng giao cho VAMC thực quyền trong vai trò là chủ nợ khi mua nợ xấu của các NHTM. Xây dựng cơ chế để VAMC có đủ thẩm quyền cùng với các NHTM trong việc xử lý tài sản đảm bảo. NHNN cần tăng cường giám sát hoạt động của các NHTM trong việc phân loại nợ, trích và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; phân phối lợi nhuận...
Gắn xử lý nợ xấu với việc xử lý sở hữu chéo là vấn đề phức tạp, không thể xử lý dứt điểm trong thời gian ngắn nhưng cũng không nên cho rằng “tránh đổ vỡ, phải gỡ từng bước” và kéo dài tình trạng này. Song song với biện pháp thoái vốn đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng, NHNN cần xây dựng lộ trình trong ngắn hạn để giảm sở hữu vốn lẫn nhau giữa các NHTM, giữa NHTM với các công ty con của NHTM và giữa NHTM với DN và các TCTD khác. Đối với các cổ đông đang có sở hữu chéo cần xác minh rõ nguồn lực tài chính cũng như giám sát chặt chẽ các cổ đông này trong việc mua bán chuyển nhượng cổ phiếu ngân hàng trên thị trường chứng khoán; ngăn chặn việc thao túng, lợi ích nhóm trong hoạt động ngân hàng...
2015 được coi là năm có triển vọng cho việc sáp nhập giữa các ngân hàng có quy mô lớn với các ngân hàng quy mô nhỏ hơn. Đây không chỉ là động thái để tăng quy mô, mở rộng kênh phân phối, tận dụng thế mạnh của mỗi bên mà còn giải quyết vấn đề về sở hữu cổ phần của một ngân hàng tại NHTM theo quy định của Thông tư 36/2014/TT-NHNN.
Việc nâng cao văn hóa quản trị rủi ro và năng lực giám sát ngân hàng là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng có vai trò cốt yếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia và được xem là ngành chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ. Vì vậy, quản trị rủi ro cần làm rõ sự phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính của ngân hàng cũng như chiến lược chung như thế nào... Để thực hiện có hiệu quả những nội dung này, mỗi ngân hàng phải nâng cao quản trị rủi ro nội bộ, thường xuyên kiểm tra sức chịu đựng của ngân hàng, giúp ngân hàng chủ động đối phó với tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Ba là, hướng đến khách hàng, đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng. Phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh và có nhiều rủi ro đòi hỏi các NHTM phải thực sự hướng đến khách hàng, coi khách hàng làm trung tâm, thu hút và giữ chân được khách hàng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngân hàng. Khi đã xác định “khách hàng làm trung tâm” cần phải sắp xếp mô hình kinh doanh, thiết lập và vận hành các công cụ phân tích khách hàng hiện đại. Kết quả phân tích khách hàng sẽ giúp cho các nhà điều hành ngân hàng có cái nhìn sâu hơn. Nghĩa là không chỉ những gì đã xảy ra trong quá khứ, lý giải tại sao nó xảy ra, những gì có thể xảy ra trong tương lai và làm thế nào để quản lý hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mà còn tính đến các sự kiện không lường trước để đạt được kết quả tốt nhất có thể. Sự hiểu biết sâu sắc này, cùng với kiến thức và kinh nghiệm của nhà quản trị, điều hành ngân hàng sẽ giúp tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh, giảm nợ xấu nảy sinh.
Trước mắt cũng như trong trung hạn, tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu của NHTM. Nền kinh tế cũng đang trong giai đoạn đầu phát triển, nhu cầu vốn rất lớn, trong khi thị trường vốn chưa phát triển thì hoạt động động tín dụng cần hướng dòng vốn tín dụng cho sản xuất, phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, sản xuất - chế biến, DN nhỏ và vừa, các khu vực kinh tế năng động; hạn chế các lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.
Hệ thống ngân hàng cần tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, phát triển nhanh các dịch vụ ngân hàng hiện đại trên cơ sở đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ gắn với quản lý rủi ro hoạt động; Mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động ngân hàng ở khu vực nông thôn, rà soát mạng lưới, mạnh dạn đóng cửa các chi nhánh, phòng giao dịch hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thống thu thập dữ liệu đảm bảo các thông tin cung cấp là tin cậy. Trong hoạt động ngân hàng, không phải mọi thông tin có thể công bố công khai, nhưng càng minh bạch thông tin, đảm bảo tính cập nhật, độ chuẩn xác sẽ càng củng cố được niềm tin của khách hàng. Chỉ khi có được hệ thống thông tin tốt, minh bạch, với nguồn nhân lực có chất lượng, có tính chuyên nghiệp, cải thiện được uy tín, lòng tin giữa DN với ngân hàng, khi đó ngân hàng mới có điều kiện phát triển ổn định.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo kinh tế - xã hội năm 2014 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội;
2. Diễn đàn kinh tế thế giới – WEF về năng lực cạnh tranh quốc gia các năm 2011,2012, 2013, 2014;
3. Báo cáo của NHNN, một số NHTM các năm2009 – 2013;
4. Báo cáo của Uỷ ban Giám sát Tài chính Quốc gia năm 2012, 2013;
5. Website: www.vnba.org.vn; http://cafeland.vn; www.gso.gov.vn; www.sbv.gov.vn.