Góc nhìn kiểm toán: Tín dụng chưa hướng vào lĩnh vực ưu tiên
Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đánh giá, cơ cấu tín dụng năm 2022 chưa đúng định hướng vào lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ và kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiểm ẩn rủi ro..
KTNN vừa có báo cáo gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các đại biểu Quốc hội về tổng hợp kết quả kiểm toán tổ chức thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (Chương trình). Trong đó, KTNN đã đánh giá việc thực hiện các chính sách tiền tệ hỗ trợ Chương trình năm 2022.
Tiến độ xử lý tổ chức tín dụng yếu kém chậm, kéo dài qua nhiều năm
Kết quả kiểm toán chỉ rõ, đối với việc bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), qua kiểm toán tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN) năm 2023 cho thấy, tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng nhiều thời điểm trong năm còn căng thẳng, một số TCTD thiếu hụt vốn khả dụng, dẫn đến vi phạm tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc phải cho vay hỗ trợ thanh khoản.
Đối với các TCTD yếu kém, KTNN đánh giá, phương án xử lý TCTD yếu kém (3 ngân hàng) còn chậm, kéo dài qua nhiều năm phát sinh (từ năm 2015 đến nay). Việc kéo dài tiến độ xử lý dẫn đến rủi ro nguồn lực hỗ trợ thông qua các hình thức cho vay đặc biệt tăng.
Đến thời điểm kiểm toán (tháng 8/2023), việc xử lý 03 ngân hàng mua bắt buộc mới ở bước được Chính phủ phê duyệt chủ trương chuyển giao bắt buộc, đang ở giai đoạn xác định giá trị doanh nghiệp để chuyển giao bắt buộc, 01 Ngân hàng mới được Chính phủ phê duyệt chủ trương chuyển giao bắt buộc.
Tình hình tài chính của các ngân hàng vẫn rất khó khăn: Nợ xấu và tài sản tồn đọng cao, âm vốn chủ sở hữu, lỗ lũy kế tiếp tục có xu hướng gia tăng, không đáp ứng quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng; một số ngân hàng thương mại (NHTM) tiềm ẩn rủi ro cao, gây mất an toàn hệ thống.
Kết quả kiểm toán cũng chỉ ra, tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài hạn toàn hệ thống đến 31/12/2022 là 25,6% không vượt ngưỡng cho phép. Tuy nhiên tỷ lệ này đang có xu hướng tăng. Cụ thể: khối NHTM cổ phần năm 2022 đạt 30,7% (năm 2021 là 26,3%); khối TCTD phi ngân hàng tăng từ 37% năm 2021 lên 42% năm 2022.
Tại thời điểm 31/12/2022, ngoài những NHTM yếu kém chưa đáp ứng tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn (Oceanbank, GPBank, CBbank, DongAbank, SCB) còn một số NHTM có tỷ lệ này khá cao, sát ngưỡng cho phép, tiềm ẩn rủi ro việc mất cân bằng kỳ hạn và rủi ro thanh khoản với TCTD.
Không đạt mục tiêu giảm lãi suất cho vay
Về vấn đề lãi suất cho vay, Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đặt mục tiêu phấn đấu giảm khoảng 0,5%-1%. Kết quả kiểm toán cho thấy, năm 2022, NHNN đã triển khai các biện pháp để tác động giảm lãi suất cho vay của các TCTD. Tuy nhiên, các biện pháp đều không hiệu quả, chưa đạt được mục tiêu phấn đấu giảm lãi suất cho vay theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 mà còn có xu hướng tăng; biên độ giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân còn lớn, trên 4%.
Chỉ trong thời gian ngắn, NHNN đã có 02 lần điều chỉnh tăng các mức lãi suất điều hành (vào ngày 23/9/2022 và ngày 25/10/2022) với tổng mức tăng 2%, dẫn đến lãi suất huy động và lãi suất cho vay bình quân toàn hệ thống đều đột ngột tăng cao trong những tháng cuối năm (có tháng lãi suất huy động trên 11%, lãi suất cho vay trên 13%).
“Việc đột ngột điều chỉnh tăng các mức lãi suất điều hành sau một thời gian dài không thay đổi của NHNN, trong khi các Ngân hàng trung ương trên thế giới đã tăng dần lãi suất từ đầu năm 2022, là khó dự đoán, gây bất ngờ cho nền kinh tế, khiến cho môi trường kinh tế rủi ro hơn, người dân, doanh nghiệp không thể lập được kế hoạch kinh doanh dài hạn một cách ổn định” - KTNN phân tích.
Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng thay vì tiết giảm chi phí, hạ biên độ lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp thì trong năm 2022 lại tăng biên độ lãi suất so với đầu năm. Lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng tăng, trong đó, nguồn thu từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng chủ yếu và tiếp tục tăng, chi phí hoạt động cũng tiếp tục tăng, tỷ lệ chi phí hoạt động so với dư nợ cho vay năm 2022 tăng so với năm 2021.
Dư nợ tín dụng vào lĩnh vực bất động sản tăng 23,9%
Đánh giá việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn, giảm lãi vay đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo yêu cầu tại Nghị quyết số 43, KTNN chỉ rõ, đến cuối tháng 6/2022 (thời điểm kết thúc chính sách hỗ trợ cơ cấu nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19), các TCTD đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, lũy kế hơn 722.334 tỷ đồng cho gần 1,1 triệu khách hàng; miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ, lũy kế hơn 92.425 tỷ đồng cho gần 562 nghìn khách hàng.
Đến cuối tháng 01/2023, dư nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ toàn hệ thống các TCTD còn khoảng 87.826 tỷ đồng; dư nợ miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ còn khoảng gần 10.174 tỷ đồng.
Tại BIDV, năm 2022 đã thực hiện cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ do ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với 316 khách hàng, tổng số tiền là 11.224 tỷ đồng (cơ cấu gốc: 9.952 tỷ đồng, cơ cấu lãi 1.272 tỷ đồng). BIDV đã thực hiện miễn, giảm lãi, phí do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 đối với 01 khách hàng, số lãi, phí được miễn giảm là 25 triệu đồng.
Kết quả kiểm toán cũng cho thấy, cơ cấu tín dụng năm 2022 chưa đúng định hướng vào lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ và kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiểm ẩn rủi ro; cho thấy vai trò định hướng thị trường của NHNN chưa thực sự hiệu quả.
Cụ thể, cơ cấu tín dụng đối với lĩnh vực ưu tiên so với năm 2021, ngoài dư nợ tín dụng xuất khẩu giảm cả về giá trị dư nợ (giảm 5,5%) và tỷ trọng so với nền kinh tế (giảm 17,41%) do ảnh hưởng của dịch Covid; các lĩnh vực ưu tiên còn lại mặc dù dư nợ có tăng trưởng so với năm 2021 nhưng tỷ lệ tăng trưởng đều thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng chung toàn ngành (14,18%); tỷ trọng dư nợ của các ngành này so với dư nợ toàn nền kinh tế năm 2022 đều giảm so với năm 2021.
Trong khi đó, đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, dư nợ cấp tín dụng vào lĩnh vực bất động sản cuối năm 2022 đạt 2.581 nghìn tỷ đồng, tăng 23,9% so với cuối năm 2021 (cao gấp 1,7 lần so với tăng trưởng chung toàn ngành).
KTNN đánh giá, thực trạng trên, ngoài các nguyên nhân khách quan còn có một phần từ nguyên nhân chủ quan của NHNN và các NHTM. Đó là phản ứng của NHNN còn chậm dẫn đến điều chỉnh tăng lãi suất còn đột ngột; chức năng thanh tra giám sát của cơ quan thanh tra giám sát còn có điểm yếu kém, chưa phân tích, làm rõ một số vấn đề trọng yếu, tiềm ẩn rủi ro của đối tượng giám sát vi mô. Các NHTM vì mục tiêu kinh doanh là lợi nhuận, chưa thực sự tiết giảm chi phí cũng như chủ động hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển kinh tế.
Qua kết quả kiểm toán, KTNN kiến nghị NHNN phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương đẩy nhanh tiến độ chuyển giao bắt buộc đối với 03 ngân hàng mua bắt buộc và DongABank. Đối với các NHTM tiềm ẩn rủi ro mất an toàn, trên cơ sở kết quả thanh tra của cơ quan thanh tra giám sát, Thanh tra Chính phủ và báo cáo giám sát vi mô, cơ quan thanh tra giám sát xác định rõ thực trạng tài chính, giám sát chặt chẽ, bám sát hoạt động của ngân hàng để kịp thời báo cáo Thống đốc NHNN đề ra các biện pháp giám sát, can thiệp phù hợp với các quy định của pháp luật, theo nguyên tắc không để thất thoát, mất tài sản của Nhà nước và nhân dân, không để mất an toàn, bảo đảm ổn định hệ thống ngân hàng./.