Hài hòa hóa nguồn gốc xuất xứ - Cơ hội lớn từ RCEP trong xuất khẩu nội khối
Theo TS. Lương Văn Khôi, lợi ích lớn mà RCEP đem lại là việc hài hòa hóa nguồn gốc xuất xứ khu vực với việc áp dụng phương pháp cộng gộp tỷ lệ xuất xứ, từ đó mở ra khá nhiều cơ hội và lợi ích cho các xuất khẩu nội khối.
Lợi ích trên từ RCEP đem lại được TS. Lương Văn Khôi, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia - NCIF (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chỉ ra tại hội thảo “Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) định hình các chuỗi cung ứng ở Việt Nam như thế nào”, do NCIF phối hợp với Viện Konrad-Adenauer-Stiftung Việt Nam (Viện KAS) tổ chức tại Hà Nội vào ngày 10/11.
Hội thảo cũng công bố báo cáo ảnh hưởng của RCEP tới định hình chuỗi cung ứng ở Việt Nam.
Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều từ RCEP
Theo TS. Lương Văn Khôi, từ ngày 01/1/2022, RCEP được ký kết vào năm 2020 giữa 10 nước ASEAN với 5 nước đối tác (Úc, New Zealand, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) chính thức có hiệu lực. Đây là một hiệp định thương mại tự do (FTA) có quy mô lớn nhất, bao trùm 30% GDP toàn cầu. RCEP sẽ xóa bỏ khoảng 90% số dòng thuế trong vòng 20 năm kể từ khi có hiệu lực, tốc độ cắt giảm ở các nhóm ngành là khá khác nhau. RCEP cũng bao gồm nhiều cam kết về thuận lợi hóa thương mại, như: đơn giản hóa, minh bạch thủ tục hải quan; giải quyết tranh chấp thương mại.
“Nhiều báo cáo đánh giá về tác động của RCEP cho rằng, Hiệp định này sẽ mang lại nhiều tác động tích cực tới kinh tế khu vực”, ông Khôi nói.
Theo đó, tới năm 2030 sẽ làm tăng thu nhập của toàn khu vực khoảng 0,6%, tương đương với tăng thêm mỗi năm 245 tỷ USD và tạo thêm 2,8 triệu việc làm.
“Ngoài các cam kết của một FTA truyền thống, RCEP còn có thêm các cam kết về thương mại điện tử, viễn thông, cạnh tranh, doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), mua sắm công... Quan trọng nhất có lẽ là việc hài hòa hóa nguồn gốc xuất xứ khu vực với việc áp dụng phương pháp cộng gộp tỷ lệ xuất xứ, từ đó mở ra khá nhiều cơ hội và lợi ích cho các xuất khẩu nội khối.”, TS. Lương Văn Khôi nhấn mạnh.
Bên cạnh những lợi ích trên, TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban Dự báo Kinh tế ngành và Doanh nghiệp, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia cho rằng, RCEP còn có vai trò quan trọng trong định hình các chuỗi cung ứng tại Việt Nam.
Cụ thể, báo cáo “Ảnh hưởng của RCEP tới định hình chuỗi cung ứng ở Việt Nam” do NCIF và Viện Konrad - Adenauer - Stiftung Việt Nam thực hiện được TS. Thắng trình bày cho biết, do các hiệp định đã ký trước đó giữa nhiều nước thành viên, một số nhóm sản phẩm như: linh kiện điện tử, dệt may giữa các quốc gia trong RCEP đã có mức thuế rất thấp, nên tác động thương mại của RCEP không nhiều.
Tuy nhiên, thuế của một số mặt hàng Việt Nam như: dệt may, ô tô, một số sản phẩm điện tử được cắt giảm và việc áp dụng quy tắc xuất xứ thống nhất trong RCEP sẽ giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực. Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng vào Việt Nam đã diễn ra từ trước nhờ các hiệp định song phương hoặc trong khuôn khổ ASEAN+6 sẽ tiếp tục được đẩy mạnh nhờ RCEP. Dòng vốn FDI của Việt Nam cũng được kỳ vọng tăng lên khi các nhà đầu tư lớn trong khu vực đẩy mạnh chuyên môn hóa để phát triển chuỗi cung ứng.
RCEP cũng tác động lớn đến chuỗi cung ứng ngành điện tử, sản xuất ô tô, dệt, may mặc ở Việt Nam. Trong đó, đối với lĩnh vực điện tử, các nước RCEP là đối tác cung cấp bộ phận, linh kiện điện tử lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới 66% tổng giá trị nhập khẩu nhóm hàng này, nhờ vai trò của Trung Quốc và Hàn Quốc.
Nghiên cứu cũng cho thấy, RCEP tạo cơ hội để Việt Nam cải thiện giá trị gia tăng và tăng năng suất, khắc phục tình trạng gia công hiện nay bằng cách thúc đẩy mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế theo quy mô, thu hút đầu tư vào các ngành sản xuất thượng nguồn để cải thiện giá trị gia tăng và tăng năng suất lao động. Đồng thời, tăng cường chuyên môn hóa vào các ngành mà Việt Nam đang có lợi thế, từ đó lôi kéo thêm nhiều FDI trong chuỗi cung ứng đến Việt Nam.
Nhiều vấn đề đặt ra
Bên cạnh những lợi ích, TS. Khôi cũng chỉ ra, cũng có nhiều nghiên cứu khác chỉ ra rằng, RCEP sẽ đặt ra khá nhiều vấn đề đối với Việt Nam. Lợi ích từ cắt giảm thuế quan là không nhiều do Việt Nam đã và đang thực hiện trong khuôn khổ các FTA ASEAN+6, cũng như giữa Việt Nam và các nước trong khu vực đã có nhiều FTA song phương và đa phương khác nhưL FTA Việt Nam -Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA), CPTPP…
Trong khi đó, các quy tắc xuất xứ trong RCEP có thể kích thích nhập khẩu hàng hóa trung gian vào Việt Nam, đặc biệt là từ Trung Quốc, tạo ra những bất lợi cho sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ và tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp Việt Nam.
Đặc biệt, ba đối tác lớn nhất trong RCEP bao gồm: Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, khi đã đặt được quan hệ tự do thương mại trong khuôn khổ RCEP sẽ tạo ra tác động chuyển hướng thương mại và đầu tư rất lớn đối với các đối tác trong ASEAN.
Làm rõ thêm vấn đề , TS. Trần Toàn Thắng cũng chỉ ra một số lĩnh vực, ngành hàng có khả năng bị ảnh hưởng lớn từ các tác động của RCEP như: điện tử, dệt, da giày, may mặc, sản xuất ô tô…
Tăng cường năng lực và đẩy nhanh chương trình giúp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ
Ông Thắng cho rằng, cần tăng cường công tác phổ biến thông tin về RCEP, đặc biệt là lợi ích và thách thức của các quy định trong RCEP trên góc độ định hình các chuỗi cung ứng, từ đó giúp doanh nghiệp sẵn sàng hơn trong hoạch định kế hoạch sản xuất, kinh doanh và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bên cạnh đó, tăng cường năng lực và đẩy nhanh chương trình giúp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam, đặc biệt là những ngành đang đối mặt với các thách thức từ RCEP do các quy định về thuế quan và hài hòa nguồn gốc xuất xứ ở Việt Nam; thu hút đầu tư FDI có chọn lọc, đặc biệt cần đi kèm với các hình thức bảo hộ, hỗ trợ phù hợp với những ngành sản xuất linh kiện, tạo cơ hội để các doanh nghiệp Việt phát triển tốt hơn trong những ngành này.
Ông Thắng cũng cho rằng, cần khuyến khích xuất khẩu của doanh nghiệp Việt với các đối tác trong RCEP với những ngành thuận lợi nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu, tăng tích lũy và chuyển dần lên phân khúc giá trị gia tăng cao hơn của thị trường.
Trong ngắn hạn, lựa chọn đối tác thu hút FDI phù hợp với từng ngành cụ thể, đặc biệt là các nước có trình độ công nghệ cao và đầu tư vào các sản phẩm thượng nguồn có giá trị gia tăng lớn, để tận dụng được quy tắc xuất xứ và nâng cấp chuỗi giá trị của Việt Nam.
Bên cạnh đó, theo Phó Chủ tịch Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam Đỗ Thúy Hương, nhiều tập đoàn, nhà cung ứng công nghệ hàng đầu trên thế giới như: Apple, Foxconn… đang xem xét đặt chuỗi sản xuất, cung ứng tại Việt Nam.
Điều này mở ra cánh cửa cho các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác, tham gia vào chuỗi cung ứng với hàm lượng và giá trị cao hơn.
“Do đó, ngành điện tử Việt Nam cần có những chính sách, sự đột phá để thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu ngày càng cao về sản xuất và vận hành tinh gọn của thị trường, nhằm giúp doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể giảm chi phí, tối ưu hóa hoạt động sản xuất, phát triển bền vững bằng việc cập nhật những xu hướng công nghệ tiên tiến và giải pháp sản xuất thông minh”, Phó Chủ tịch Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam khuyến nghị.
Báo cáo “Ảnh hướng của Hiệp định RCEP tới định hình chuỗi cung ứng ở Việt Nam” do NCIF và Viện Konrad - Adenauer - Stiftung Việt Nam thực hiện tập trung vào 3 nội dung chính:
Thứ nhất, tổng quan các cam kết liên quan, đánh giá cơ cấu thương mại hàng hoá theo chuỗi cung ứng và mối quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và các nước RCEP.
Thứ hai, phân tích lộ trình cắt giảm thuế quan và quy tắc xuất xứ giữa việt Nam với các nước RCEP, từ đó đánh giá tác động tới sự thay đổi chuỗi cung ứng ở Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chính sách, nhằm tăng cường hiệu quả thu hút đầu tư FDI và cải thiện chuỗi cung ứng của Việt Nam.
Báo cáo cũng tập trung phân tích sâu một số chuỗi cung ứng trong ngành chế biến, chế tạo cụ thể bao gồm: Điện tử, ô tô, dệt may. Đây là những nhóm ngành được đặc biệt quan tâm trong giai đoan hiện nay, do có tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu lớn, tác động của RCEP về tái định hình các chuỗi cung ứng trong các nhóm ngành này trong trung và dài hạn sẽ ảnh hưởng tới cả tăng trưởng, đầu tư và xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.