Hệ thống ngân hàng Việt Nam trước thềm AEC
(Tài chính) Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đã hướng tới mục tiêu hội nhập ngành ngân hàng nội khối vào năm 2020, xóa bỏ mọi rào cản và khác biệt trong ngành giữa các quốc gia trong khối để tạo ra một hệ thống ngân hàng mở cho phép các ngân hàng ASEAN được hoạt động một cách bình đẳng với ngân hàng sở tại của bất kỳ quốc gia thành viên nào trong khối.
Tham gia AEC và thực thi hệ thống ngân hàng mở có nghĩa là các quốc gia thành viên sẽ phải bỏ mọi giới hạn về sở hữu nước ngoài với các ngân hàng nội địa của mình. Trong khuôn khổ AEC, các nước thành viên cũng phải tạo ra một sân chơi bình đẳng cho ngân hàng các nước thành viên khác hoạt động trên lãnh thổ của mình bằng cách xóa bỏ những khác biệt pháp lý mang tính phân biệt đối xử giữa các ngân hàng có quốc tịch khác nhau.
Những biện pháp nói trên được kỳ vọng sẽ thúc đẩy sự hợp nhất và tạo ra những ngân hàng khu vực lớn về quy mô, phạm vi và hiệu quả để cạnh tranh trên tầm quốc tế. Chúng cũng sẽ giúp tăng cường phạm vi che phủ và mức độ phục vụ ngành ngân hàng ở những vùng, những ngành mà mức độ thâm nhập và phục vụ của các dịch vụ ngân hàng vẫn còn thấp. Tuy nhiên, sự hội nhập và hợp nhất ngân hàng trong khối sẽ không đơn giản vì những khác biệt lớn khó lấp đầy về khuôn khổi pháp lý cũng như về mức độ tự do hóa thị trường tài chính giữa các quốc gia liên quan.
Xét về riêng triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam, cũng giống như với các thành viên khác, giới phân tích cho rằng hội nhập trong AEC với các M&A trong tương lai, về tổng thể, sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn cho Việt Nam khi nó mang đến một lượng vốn mới rất cần thiết và những hiệu ứng cộng hưởng tích cực mới. Ngược lại, các ngân hàng Việt Nam cũng hứa hẹn là cơ hội tốt trong các thương vụ M&A với ngân hàng nước khác trong khối.
Hiện các ngân hàng Việt Nam đang hoạt động trong môi trường vĩ mô khá thuận lợi với các chính sách ưu tiên ổn định vĩ mô của Chính phủ. Sức khỏe của hệ thống ngân hàng nhìn chung cũng đang trên đà được cải thiện. Tuy nhiên, ở góc độ từng ngân hàng thương mại Việt Nam, một tỷ trọng đáng kể trong chúng đang được định giá cao bất chấp chúng phải đối mặt với vấn đề về chất lượng tài sản và rủi ro rơi vào tầm ngắm tái cơ cấu của NHNN. Cầu nội địa tăng chậm và thị trường bất động sản chưa hồi phục sau một thời gian dài suy sụp đã làm tăng nợ xấu, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng tài sản, và do đó, đến vốn chủ sở hữu và lợi nhuận của nhiều ngân hàng.
Bên cạnh đó, giới hạn trần về sở hữu nước ngoài sẽ làm nhiều ngân hàng nước ngoài ngần ngại trong việc tìm kiếm cơ hội M&A ở Việt Nam và điều này sẽ làm cho thị trường M&A ở Việt Nam càng kém phát triển, khan hiếm thông tin, gây cản trở đến việc xác định được đúng giá trị thực của các mục tiêu M&A trong nước cũng như làm khó khăn thêm (trong việc định giá) cho các ngân hàng nước ngoài tìm kiếm cơ hội M&A ở Việt Nam.
Do đó, để chuẩn bị và thúc đẩy quá trình hội nhập ngành ngân hàng trong khuôn khổ AEC, Việt Nam cần chủ động (có lộ trình) sửa đổi theo hướng nâng cao, tiến tới xóa bỏ giới hạn sở hữu nước ngoài, đồng thời có những ưu đãi về thuế đối với hoạt động M&A để khuyến khích quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng với sự tham gia tích cực của các ngân hàng nước khác trong khối.