Hiện đại hóa kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước, góp phần hình thành Kho bạc số
Thu ngân sách nhà nước là việc tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành Quỹ ngân sách nhà nước. Chi ngân sách nhà nước là quá trình sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của các cơ quan đơn vị và đầu tư cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất... đảm bảo quá trình chi tiết kiệm và hiệu quả, theo đúng chính sách chế độ của Nhà nước phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội. Vì thế, việc quản lý thu, chi ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia. Theo đó đẩy mạnh hiện đại hóa kiểm soát chi theo lộ trình cần được quan tâm toàn diện.
Thực trạng kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước
Kết quả đạt được
Trong những năm qua, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã đảm bảo quản lý an toàn và đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chi NSNN cho các đơn vị sử dụng ngân sách (ĐVSDNS). Đồng thời, KBNN đã cung cấp đầy đủ các thông tin về tình hình chi NSNN cho chính quyền và cơ quan tài chính các cấp, phục vụ cho công tác quản lý và điều hành NSNN.
Cùng với đó, KBNN thường xuyên tiến hành cải cách cơ chế chính sách và quy trình nghiệp vụ, hoàn thiện tổ chức bộ máy của KBNN, gắn với hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. KBNN đã thực hiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN chặt chẽ, an toàn, hiệu quả. Cụ thể:
Thứ nhất, KBNN xây dựng và hoàn thiện cơ chế, quy trình kiểm soát chi NSNN theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, chứng từ và nội dung kiểm soát; Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, đơn vị; Xây dựng Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20/01/2020 của Chính phủ quy định về thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực KBNN theo hướng thống nhất về hồ sơ thủ tục đối với các chi thường xuyên (trước đây được quy định tại nhiều văn bản, một số nội dung chưa thống nhất) phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã được Quốc hội phê chuẩn, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị theo hướng cải cách, đơn giản hóa và phù hợp với cơ chế chính sách mới, tạo thuận lợi cho các đơn vị trong quá trình giao dịch với KBNN, giảm thời gian kiểm soát chi thường xuyên còn 02 ngày làm việc đối với các khoản thanh toán và trong vòng 01 ngày làm việc đối với các khoản tạm ứng, các khoản thực hiện theo hình thức thanh toán trước, kiểm soát sau và các khoản chi từ tài khoản tiền gửi của đơn vị giao dịch mà KBNN không phải kiểm soát kể từ khi KBNN nhận đủ hồ sơ hợp lệ, hợp pháp của ĐVSDNS.
Thứ hai, thực hiện phân loại với các nội dung khoản chi có mức độ rủi ro thấp: khoản chi chi điện, nước, dịch vụ viễn thông, trên cơ sở pháp lý quy định tại Nghị định số 11/2020/NĐ-CP, KBNN triển khai thanh toán tự động điện, nước, dịch vụ viễn thông cho Nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ theo văn bản ủy quyền của đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước từ tháng 04/2023, theo đó sau khi ĐVSDNS ký ủy quyền với KBNN, KBNN thanh toán tự động các khoản chi dịch vụ điện, nước, viễn thông cho Nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ.
Hàng tháng, căn cứ Bảng kê sử dụng dịch vụ trong tháng do nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng trung gian thanh toán gửi, KBNN thực hiện thanh toán và báo nợ cho ĐVSDNS. Quy trình thanh toán tự động đã giảm thiểu thời gian xử lý, khối lượng công việc cho công chức Kho bạc. Qua đó, KBNN tập trung kiểm soát các khoản chi có độ rủi ro cao, nâng cao hiệu quả quản lý của KBNN. Đẩy mạnh việc thực hiện số hóa công tác kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước, tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí quản lý của ĐVSDNS, tạo thuận lợi cho các ĐVSDNS, hàng tháng các ĐVSDNS không phải gửi yêu cầu thanh toán đối với các khoản chi điện, nước và viễn thông đến KBNN.
Thứ ba, xây dựng quy trình kiểm soát, thanh toán, chi trả cho cá nhân qua tài khoản và trao đổi thông tin trên Cổng trao đổi dữ liệu giữa KBNN với ĐVSDNS, Ngân hàng thương mại (NHTM) về thông tin của Bảng thanh toán cho đối tượng thụ hưởng góp phần tạo thuận lợi cho ĐVSDNS, hạn chế rủi ro, tránh thất thoát NSNN, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, hướng tới Chính phủ số và Kho bạc số
Việc ban hành Quy trình đã cụ thể hóa quy định kiểm soát, thanh toán các khoản chi cho cá nhân, tạo mô hình khép kín giữa ĐVSDNS, KBNN và NHTM. Tham gia vào Quy trình này, ĐVSDNS truy cập hệ thống dịch vụ công trực tuyến tạo hồ sơ giao nhận gửi KBNN. Căn cứ theo hồ sơ ĐVSDNS gửi trên hệ thống dịch vụ công trực tuyến, KBNN kiểm soát hồ sơ chứng từ theo quy định; đồng thời, chuyển chứng từ thanh toán qua hệ thống thanh toán điện tử với ngân hàng. Ngân hàng thương mại, nơi đơn vị mở tài khoản thanh toán, lấy thông tin bảng thanh toán đã được KBNN kiểm soát để thanh toán cho đối tượng thụ hưởng.
Quy trình này đã được triển khai thí điểm tại KBNN Hải Phòng và KBNN Vĩnh Phúc trong tháng 01/2024. Trên cơ sở kết quả triển khai thí điểm kết nối qua Cổng trao đổi dữ liệu giữa KBNN và NHTM, kết hợp với kết quả triển khai thí điểm tại KBNN Hải Phòng và KBNN Vĩnh Phúc, KBNN sẽ công bố chuẩn kết nối với các NHTM và phương án triển khai diện rộng để NHTM thực hiện tích hợp kết nối theo chuẩn với hệ thống dịch vụ công trực tuyến của KBNN để triển khai diện rộng trên toàn quốc.
Với những cải tiến, đổi mới và thay đổi trong quá trình kiểm soát, thanh toán, công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua hệ thống KBNN đã đáp ứng được những đòi hỏi đặt ra trong quá trình thực hiện cùng với những thay đổi về cơ chế chính sách, hệ thống KBNN đã nỗ lực thực hiện hiệu quả nhiệm vụ kiểm soát chi cụ thể:
Số liệu chi thường xuyên trong tổng chi NSNN cho thấy rằng, tỷ trọng chi thường xuyên trong tổng chi NSNN luôn chiếm tỷ lệ lớn, công tác kiểm soát chi cũng kéo theo nhiều công đoạn công việc, hồ sơ chứng từ cần phải kiểm soát chi, theo dõi của KBNN cũng tăng lên nhiều công đoạn, thời gian và nhân lực, vật lực kèm theo.
Giải ngân chi thường xuyên phụ thuộc vào tình hình thực tế công tác chi tiêu theo từng năm, nhưng chủ yếu hoạt động chi thường xuyên mang tính thường niên và phục vụ cho hoạt động của bộ máy nhà nước, do vậy, những hoạt động này thường giải ngân đạt tỷ lệ cao so với dự toán được giao.
Một số hạn chế
Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động kiểm soát chi thường xuyên NSNN cũng còn một số tồn tại, hạn chế như:
- Chưa phân định rõ trách nhiệm của ĐVSNCL và KBNN trong việc kiểm soát, thanh toán đặt hàng, các quy định liên quan đến tạm ứng, thanh toán các khoản chi cá nhân còn chưa rõ ràng, kê khai các mẫu biểu còn thiếu thống nhất.
- Việc kiểm soát thanh toán đối với chi thường xuyên mới bước đầu áp dụng điện tử hoá quy trình nghiệp vụ, chưa được số hoá toàn diện, vấn đề số hoá hiện nay vẫn còn đang vướng mắc bởi hành lang pháp lý, chưa có sự liên thông của các bộ, ban, ngành cơ quan trung ương và địa phương. Các hoạt động nghiệp vụ vẫn trong tình trạng bán tự động, đòi hỏi phải có sự đổi mới toàn diện về quy trình nghiệp vụ, về ứng dụng công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
- Công tác kiểm soát chi thường xuyên còn chưa có chương trình ứng dụng để hỗ trợ quản lý Hợp đồng chi thường xuyên nhiều năm, Hợp đồng thanh toán nhiều lần, chưa hỗ trợ việc theo dõi thanh toán tạm ứng đối với các khoản chi không có hợp đồng hoặc khoản chi không phải gửi Hợp đồng đến KBNN (theo quy định tại Thông tư số 62/2020/TT-BTC thì đơn vị sử dụng ngân sách phải thanh toán tạm ứng chậm nhất với KBNN vào ngày cuối cùng tháng kế tiếp tháng tạm ứng), chưa hỗ trợ việc theo dõi các Hợp đồng phải có bảo lãnh tạm ứng, thời hạn của bảo lãnh tạm ứng... Hiện nay, một số ĐVSDNS sử dụng hóa đơn và chứng từ chi để thanh toán nhiều lần dẫn đến thất thoát NSNN, tuy nhiên chưa có phần mềm cảnh bảo để hỗ trợ GDV KBNN phát hiện và kiểm tra.
- Một số thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực chi thường xuyên chưa được quy định trong Nghị định số 11/2020/NĐ-CP như: Chi cấp bù tiền miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập đối với các cơ sở giáo dục công lập tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP làm tăng các hồ sơ đơn vị phải gửi KBNN, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị có liên quan trong quá trình kiểm soát, thanh toán, chưa đảm bảo thực hiện theo đúng tinh thần cải cách thủ tục hành chính theo chỉ đạo của Chính phủ tại Quyết định số 131/NQ-CP ngày 06/10/2022 về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp. Về phía KBNN, việc quy định nêu trên có nguy cơ rủi ro khi chưa phân định rõ ràng trách nhiệm giữa KBNN và cơ sở giáo dục, đồng thời việc tiếp nhận một số lượng lớn hồ sơ, phức tạp dẫn đến dễ nhầm lẫn, sai sót khi kiểm soát.
- Một số khoản chi đặc thù trước kia thực hiện theo hình thức Lệnh chi tiền, sau khi chuyển sang hình thức cấp bằng dự toán cần thiết phải ban hành thủ tục hành chính riêng hoặc cần phải sửa đổi các mẫu biểu tại Nghị định số 11/2020/NĐ-CP; dẫn đến các KBNN gặp rủi ro khi chưa kịp cập nhật hoặc rà soát chưa hết các văn bản quy phạm pháp luật này để thực hiện theo đúng quy định.
Giải pháp đẩy mạnh hiện đại hóa kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước đến năm 2030
Bảng 1: Tỷ trọng giải ngân chi thường xuyên NSNN qua KBNN so với tổng chi NSNN (Tỷ đồng) |
|||||||
Nội dung |
Năm 2017 |
Năm 2018 |
Năm 2019 |
Năm 2020 |
Năm 2021 |
Năm 2022 |
Năm 2023 |
Chi thường xuyên |
846.156 |
917.541 |
984.194 |
988.174 |
1.023.401 |
1.000.452 |
1.062.669 |
Tổng chi NSNN |
1.202.512 |
1.277.794 |
1.413.194 |
1.480.370 |
1.478.684 |
1.550.039 |
1.700.988 |
Tỷ lệ % |
70,4% |
71,8% |
69,6% |
66,8% |
69,2% |
64,5% |
62,5% |
Nguồn: KBNN
Bảng 2: Tỷ trọng giải ngân chi thường xuyên NSNN qua KBNN so với dự toán được giao (Tỷ đồng) |
|||||||
Nội dung |
Năm 2017 |
Năm 2018 |
Năm 2019 |
Năm 2020 |
Năm 2021 |
Năm 2022 |
Năm 2023 |
Chi thường xuyên |
846.156 |
917.541 |
984.194 |
988.174 |
1.023.401 |
1.000.452 |
1.062.669 |
Dự toán giao |
902.880 |
976.515 |
1.042.816 |
1.118.008 |
1.062.235 |
1.112.194 |
1.184.795 |
Tỷ lệ % |
93,7% |
94,0% |
94,4% |
88,4% |
96,3% |
90,0% |
89,7% |
Nguồn: KBNN
Nhằm đẩy mạnh hiện đại hóa kiểm soát chi thường xuyên NSNN đến năm 2030, cần chú trọng triển khai một số giải pháp sau:
Thứ nhất, về cơ chế chính sách.
KBNN tham mưu với cấp có thẩm quyền sửa đổi quy định tại Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật NSNN làm căn cứ để triển khai kiểm soát chi theo mức độ rủi ro theo nội dung chi và từng ĐVSDNS theo hướng chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, gắn với việc tăng cường phân cấp, giao trách nhiệm giải trình cho ĐVSDNS và tương ứng với mức độ phát triển chức năng kiểm toán nội bộ tại các bộ, ngành, địa phương, tăng cường thanh tra, kiểm tra các trường hợp có dấu hiệu vi phạm. Giải pháp đề xuất nêu trên sẽ phù hợp với Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; Quyết định số 131/NQ-CP ngày 06/10/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Cùng với đó, dự thảo và trình Bộ Tài chính sửa đổi Thông tư số 62/2020/TT-BTC ngày 22/6/2020 của Bộ Tài chính hướng dẫn kiểm soát, thanh toán các khoản chi thường xuyên từ NSNN qua KBNN để kiểm soát đảm bảo phù hợp với các cơ chế tài chính đã được thay đổi bởi các văn bản khác (như cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập quy định tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập), đồng thời, tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình kiểm soát, thanh toán, phân định rõ trách nhiệm giữa KBNN và ĐVSDNS.
Thứ hai, rà soát, sửa đổi bổ sung các thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực chi thường xuyên
Cần rà soát, sửa đổi bổ sung các thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực chi thường xuyên, trong đó chú trọng các quy định về chi cấp bù tiền miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập đối với các cơ sở giáo dục công lập tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP. Đồng thời, cần đơn giản hóa các quy trình, thủ tục chi NSNN đặc biệt quy định về thành phần hồ sơ tại Nghị định số 11/2020/NĐ-CP theo hướng phân loại thành phần hồ sơ đơn vị giao dịch với KBNN có trách nhiệm cung cấp, thành phần hồ sơ cán bộ KBNN có trách nhiệm tự khai thác thông qua chia sẻ dữ liệu số của các cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và chia sẻ dữ liệu số mạnh mẽ chuyển đổi số toàn diện, thực chất, sâu rộng trong tiếp nhận, giải quyết TTHC, đẩy nhanh tiến độ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC theo đúng quy định của Chính phủ tại Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 ban hành về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước và Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngày 06/12/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC.
Thứ ba, đối với các nội dung khoản chi có mức độ rủi ro thấp.
Về thanh toán tự động các khoản chi chi điện, nước, dịch vụ viễn thông theo ủy quyền của DVSDNS, thực hiện triển khai Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2030, cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện kiểm soát thanh toán tự động đối với các khoản chi lương, thanh toán cá nhân... trên cơ sở hệ thống DVCTT kiểm soát tự động và quy trình kiểm soát, thanh toán các khoản chi cho cá nhân đã được liên thông từ đơn vị sử dụng ngân sách, KBNN và NHTM; các khoản chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý của ĐVSNCL tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư (nhóm 1), ĐVSNCL tự đảm bảo chi thường xuyên (nhóm 2), các đơn vị này được quyết định mức chi cụ thể tương xứng với nhiệm vụ được giao và quy định trong Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
Thứ tư, xây dựng đề án đánh giá chất lượng đối với đơn vị sử dụng ngân sách trong quá trình giao dịch với KBNN.
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá các ĐVSDNS trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về các khoản chi NSNN bao gồm: (i) Đánh giá độ rủi ro theo loại hình đơn vị (Đơn vị sự nghiệp công; Cơ quan nhà nước...), Tổ chức bộ máy kế toán của đơn vị, hệ thống kế toán hành chính sự nghiệp; (ii) Việc chấp hành các quy định về thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực KBNN; (iii) Việc tuân thủ tính pháp lý, đầy đủ, chính xác và trung thực đối với hồ sơ, chứng từ điện tử và chữ ký số của hồ sơ kiểm soát chi gửi qua hệ thống DVCTT của KBNN theo đúng quy định của Luật Giao dịch điện tử và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; (iv) Việc tuân thủ các quy định của Luật NSNN, Văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật NSNN; các quy định của pháp luật có liên quan trong quá trình kiểm soát chi; (v) Mức độ vi phạm thủ tục hành chính trong lĩnh vực KBNN; (vi) Kết luận của thanh tra kiểm toán vi phạm về pháp luật chi NSNN của đơn vị...
Căn cứ bộ tiêu chí, các Giao dịch viên, đơn vị KBNN sẽ thực hiện đánh giá đơn vị, đồng thời ban hành quy trình kiểm soát chi theo rủi ro gắn với công tác thanh tra chuyên ngành KBNN.
Thứ năm, xây dựng công cụ giám sát từ xa theo phương thức điện tử hóa hoạt động của các KBNN giao dịch.
Trên cơ sở dữ liệu giao dịch sẵn có của các hệ thống CNTT của KBNN, đề xuất xây dựng công cụ cảnh báo, giám sát hoạt động nghiệp vụ KBNN các cấp như: quản lý Hợp đồng chi thường xuyên nhiều năm, Hợp đồng thanh toán nhiều lần, hỗ trợ việc theo dõi thanh toán tạm ứng đối với các khoản chi không có hợp đồng hoặc khoản chi không phải gửi Hợp đồng đến KBNN; giám sát hồ sơ kiểm soát chi của từng đơn vị KBNN từ khâu tiếp nhận hồ sơ đến quá trình xử lý hồ sơ (thời gian kiểm soát cũng như quá trình kiểm soát chi); qua đó đánh giá xếp loại các đơn vị KBNN, giao dịch viên từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm của giao dịch viên trong thực thi công vụ, ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động KBNN. Nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng, từng bước chuyển đổi từ phương thức kiểm tra, giám sát trực tiếp (tại chỗ) sang phương thức kiểm tra, giám sát trên môi trường điện tử.
Tài liệu tham khảo:
- Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13;
- Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước;
- Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20/01/2020 của Chính phủ quy định thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực Kho bạc Nhà nước;
- Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.