Hình thành và phát triển Quỹ Hưu trí tại Việt Nam

ThS. Trương Thị Thùy Dương

Thực tiễn phát triển thị trường chứng khoán ở các quốc gia cho thấy, Quỹ Hưu trí không chỉ tạo ra hệ thống hưu trí đa trụ cột góp phần đảm bảo an sinh xã hội, mà còn tạo ra sức cầu lớn giúp ổn định thị trường chứng khoán. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Việt Nam đang nỗ lực tạo dựng Quỹ Hưu trí tự nguyện góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tại nhiều quốc gia, giá trị đầu tư của quỹ hưu trí trong nhiều năm liền đầu tư vào cổ phiếu chiếm tỷ trọng cao nhất. Nguồn: Internet.
Tại nhiều quốc gia, giá trị đầu tư của quỹ hưu trí trong nhiều năm liền đầu tư vào cổ phiếu chiếm tỷ trọng cao nhất. Nguồn: Internet.

Kinh nghiệm tạo dựng Quỹ Hưu trí ở các nước

Ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các nước phát triển cho thấy, giá trị tài sản của hệ thống Quỹ Hưu trí so với GDP thường xuyên có những biến động tăng giảm, nhưng xu hướng chính vẫn là tăng cao so với GDP. Nổi bật nhất là Mỹ, nếu như giá trị tài sản của các quỹ hưu trí năm 2012 là 16.851 tỷ USD, tương đương 108% GDP thì năm 2014 tăng lên 22.117 tỷ USD, tương đương 127% GDP.

Tại các quốc gia ở châu Á, giá trị tài sản của các quỹ hưu trí so với GDP có sự gia tăng và hiện chiếm tỷ lệ cao. Điển hình là Nhật Bản, tại thời điểm năm 2014, giá trị tài sản của các quỹ hưu trí tại nước này đạt 2.862 tỷ USD, tương đương 60% GDP. Trong khi đó, ở Malaysia, giá trị tài sản của các quỹ hưu trí năm 2014 là 205 tỷ USD, tương đương 60,7% GDP; Hàn Quốc là 511 tỷ USD, tương đương 35,3% GDP.

Một điểm đáng chú ý là trong tổng giá trị tài sản của các quỹ hưu trí được đầu tư vào các tài sản, lĩnh vực khác nhau, thì đầu tư vào cổ phiếu luôn chiếm tỷ trọng cao. Thậm chí tại nhiều quốc gia, giá trị đầu tư của quỹ hưu trí trong nhiều năm liền đầu tư vào cổ phiếu chiếm tỷ trọng cao nhất.

Chẳng hạn như tại Mỹ, năm 2014 giá trị tài sản của các quỹ hưu trí đạt 22.117 tỷ USD, trong đó 44% đầu tư vào cổ phiếu (chiếm tỷ trọng cao nhất), tiếp đến là lĩnh vực khác (29%), đầu tư vào trái phiếu (25%) và tiền mặt là 2%... Cũng tại thời điểm năm 2014, một số nước khác (như Anh, Australia, Canada) có tổng tài sản của quỹ hưu trí đầu tư vào cổ phiếu chiếm tỷ trọng cao nhất.

Đẩy mạnh khởi tạo Quỹ Hưu trí tại Việt Nam

Từ kinh nghiệm tạo dựng Quỹ Hưu trí của các quốc gia trên thế giới cho thấy, Việt Nam cũng đang đẩy mạnh khởi tạo Quỹ Hưu trí thông qua kênh đầu tư vào thị trường chứng khoán. Sự ra đời của Quỹ Hưu trí tại Việt Nam được thể hiện tại Đề án hình thành và phát triển Chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 144/2014/QĐ-TTg ngày 20/1/2014.

Theo Đề án này, việc hình thành và phát triển chương trình hưu trí tự nguyện nhằm xây dựng hệ thống hưu trí đa trụ cột, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, đồng thời khuyến khích tiết kiệm, mở rộng cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn trên thị trường vốn theo Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2020.

Để đạt mục tiêu này, Đề án đưa ra những định hướng: Đến năm 2020, có khoảng 400 - 500 doanh nghiệp với khoảng 150.000 người tham gia mua sản phẩm bảo hiểm hưu trí, hoặc đóng góp vào các Quỹ Hưu trí tự nguyện theo hình thức ủy thác đầu tư. Đến năm 2020, doanh số tích lũy của các quỹ hưu trí tự nguyện để đầu tư trở lại nền kinh tế, trong đó có thị trường vốn, thị trường chứng khoán khoảng 10.000 - 12.000 tỷ đồng.

Một bước ngoặc trong cụ thể hóa hành lang pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của Quỹ Hưu trí là ngày 1/7/2016, Chính phủ ban hành Nghị định 88/2016/NĐ-CP về chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện, với nhiều quy định chi tiết về đường hướng phát triển hệ thống Quỹ Hưu trí theo thông lệ quốc tế nhưng phù hợp với bối cảnh Việt Nam.

Thực tế tại các quốc gia trên thế giới cho thấy, mô hình tổ chức Quỹ Hưu trí rất đa dạng. Tuy nhiên, có 2 mô hình chính gồm: Quỹ Hưu trí tự nguyện được tổ chức dưới mô hình tín thác (người tham gia quỹ không có quyền sở hữu tài sản của Quỹ Hưu trí); Quỹ Hưu trí được tổ chức theo mô hình hợp đồng.

Theo mô hình hợp đồng, Quỹ Hưu trí được quản lý bởi doanh nghiệp quản lý Quỹ Hưu trí trên cơ sở hợp đồng tham gia Quỹ Hưu trí ký giữa doanh nghiệp quản lý Quỹ này với cá nhân, người lao động và người sử dụng lao động. Do có nhiều ưu thế hơn so với mô hình tín thác nên mô hình này được áp dụng phổ biến tại một số nước như: Anh, Mỹ, Italia, Tây Ban Nha...

Những ưu thế của mô hình hợp đồng là đảm bảo tách biệt tài sản của Quỹ hưu trí với tài sản của doanh nghiệp quản lý Quỹ Hưu trí và người sử dụng lao động; Tách biệt người sử dụng lao động với việc quản lý Quỹ Hưu trí; Giảm thiểu chi phí, thời gian và rủi ro ảnh hưởng đến uy tín của người sử dụng lao động trong việc vận hành Quỹ Hưu trí; Dễ dàng và thuận tiện trong triển khai, cho phép người lao động tại nhiều doanh nghiệp khác nhau cùng tham gia một Quỹ Hưu trí, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và cá nhân tham gia trực tiếp.

Trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, đánh giá khả năng thực hiện ở Việt Nam, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và các bộ ngành trình Chính phủ ban hành Nghị định 88/2016/NĐ-CP về chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện theo mô hình hợp đồng.

Trong khi đó, thị trường vốn Việt Nam (gồm thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu) đã và đang phát triển với tốc độ nhanh trong những năm gần đây. Tuy tăng trưởng mạnh về quy mô, nhưng tỷ trọng tham gia của các nhà đầu tư tổ chức có vốn dài hạn còn rất khiêm tốn.

Với thị trường trái phiếu, vẫn chủ yếu là các tổ chức tín dụng nắm giữ dư nợ trái phiếu chính phủ. Sự tham gia của các quỹ đầu tư, trong đó có các quỹ hưu trí tự nguyện còn rất hạn chế. Với cơ cấu cơ sở nhà đầu tư như hiện nay, thị trường trái phiếu và cổ phiếu còn rất thiếu các nguồn vốn đầu tư dài hạn. Từ thực tế này, vấn đề quan trọng hiện nay là cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển hệ thống cơ sở nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư dài hạn trên thị trường vốn.

Quỹ Hưu trí là tổ chức trung gian tài chính đóng vai trò huy động nguồn vốn dài hạn từ người dân để đầu tư trên thị trường tài chính, góp phần quan trọng vào phát triển thị trường này. Đặc biệt, Quỹ Hưu trí tự nguyện là một trong những nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường trái phiếu tại các quốc gia phát triển, do vậy, việc ra đời và vận hành hệ thống Quỹ Hưu trí tự nguyện tại Việt Nam, bên cạnh vai trò đa dạng hóa hệ thống an sinh xã hội, còn góp phần phát triển hệ thống cơ sở nhà đầu tư dài hạn trên thị trường vốn.

Nguồn vốn từ các quỹ hưu trí được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, cá nhân, doanh nghiệp sử dụng lao động, sẽ được đầu tư vào các sản phẩm tài chính trên thị trường vốn, qua đó, góp phần phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu chính phủ một cách bền vững.

Từ kinh nghiệm phát triển hệ thống Quỹ Hưu trí quốc tế cho thấy, trong giai đoạn ban đầu, các nước đều có cơ chế khuyến khích người lao động và doanh nghiệp tham gia thông qua các chính sách ưu đãi về phí, thuế đối với khoản đóng góp vào Quỹ Hưu trí, cũng như khoản tiền mà họ nhận được từ Quỹ này.

Cùng với đó là các cơ chế bảo vệ đảm bảo tính an toàn cao cho đồng vốn của doanh nghiệp và người lao động góp vào Quỹ, vì đây là loại hình quỹ hoạt động lâu dài gắn chặt với người lao động trong suốt độ tuổi lao động cho đến khi về hưu và còn sống. Việt Nam nên nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong quá trình thúc đẩy hình thành Quỹ Hưu trí đầu tiên, trước khi tiến đến hình thành hệ thống Quỹ này trong tương lai.       

Tài liệu tham khảo:

1. Hữu Đạo, Việt Nam trên bước đường khởi tạo quỹ hưu trí tự nguyện, Báo Đầu tư Chứng khoán, ngày 16/1/2017;

2. Tạo hành lang pháp lý vận hành quỹ hưu trí tự nguyện, baochinhphu.vn, ngày 23/5/2015;

3. Quyết định 144/2014/QĐ-TTg ngày 20/1/2014, Đề án hình thành và phát triển Chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam;

4. Nghị định 88/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 về chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện.