Khởi nghiệp ở Việt Nam – Khó hay dễ?
Tại Việt Nam, 2016 đã được xác định là năm quốc gia khởi nghiệp. Và giai đoạn 2017 – 2020 được xem là thời kỳ vàng cho khởi nghiệp với sự ra đời của hàng loạt công ty khởi nghiệp như “nấm mọc sau mưa”; tuy nhiên, số lượng startup thành công chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với các startup “chết yểu”.
Theo thống kê, nước ta đang có khoảng 1.500 startup. Xét theo mật độ các công ty khởi nghiệp trên đầu người thì Việt Nam nhiều hơn cả các quốc gia khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia.
Hiện có khoảng 2,100 công ty khởi nghiệp tại Indonesia, 2,300 tại Trung Quốc và 7,500 tại Ấn Độ. Điểm đáng chú ý là số lượng startup công nghệ vượt trội hơn hẳn so với các startup trong lĩnh vực khác.
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó, nhiều startup Việt cũng đang chọn cho mình theo hướng công nghệ (Tech Startup). Đặc điểm của các startup công nghệ là không cần quá nhiều vốn ban đầu nếu so với các ngành nghề khác và có thể dễ dàng học hỏi từ những mô hình đi trước trên thế giới.
Các thống kê gần đây đều phản ánh một thực trạng đáng buồn, đó là startup Việt ra đời thì nhiều, nhưng thất bại cũng lắm. Cụ thể: chỉ có 3% startup Việt là thành công thực sự, tức là thỏa mãn được một trong các tiêu chí: được định giá từ 10 triệu USD trở lên; doanh thu từ 2 triệu USD; có từ 100 nhân viên; đã gọi vốn vòng 2 hoặc đã bán được công ty với giá tốt.
Trong số 3% công ty được xem là thành công này, kết quả khảo sát cho thấy độ tuổi trung bình khi họ khởi nghiệp là 28,8; 78% từng làm thuê hoặc khởi nghiệp thất bại ở 2 công ty trước đây; 45% từng học hoặc làm việc tại nước ngoài trước khi về nước khởi nghiệp; thời gian trung bình dành cho startup đến lúc thành công là 5,7 năm và sẽ mất lâu hơn nữa để trở thành công ty có giá trị hàng trăm triệu USD; và 100% đều học hỏi và bản địa hoá từ mô hình tương tự đã thành công ở nước ngoài.
Một con số đáng ngạc nhiên, có đến 80% startup Việt không có cơ hội kỷ niệm lần sinh nhật thứ 2; chúng hoặc chết yểu hoặc chỉ tồn tại như một công ty “xác sống”. Vậy đâu là nguyên nhân khiến các startup Việt thất bại?
Sai lầm trong các bước đi
Nhiều bạn trẻ thường nghĩ hai cụm từ “startup” và “Entrepreneur” đều có nghĩa là “người khởi nghiệp”. Tuy nhiên, chúng không phải là một. “Entrepreneur” là một cá nhân hay nhóm người tự khởi xướng, tự chủ công việc, kinh doanh cho riêng mình vì không thích làm cho doanh nghiệp. Trong khi đó, để được xem là một startup, cá nhân hoặc doanh nghiệp phải kinh doanh sản phẩm đi kèm với ý tưởng.
Ông Robert Trần – Tổng Giám đốc Tập đoàn Tư vấn chiến lược Robenny Khu vực Mỹ, Canada và Châu Á Thái Bình Dương cho biết: “Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đang hiểu nhầm hai khái niệm này. Điều này dẫn đến những chiến lược kinh doanh không phù hợp và đó là một trong những nguyên nhân khiến các startup Việt thất bại”.
Theo ông, một startup cần tuân thủ 6 bước nền tảng bao gồm: Xác định chiến lược -> Xác định mô hình kinh doanh -> Xác định mô hình hoạt động phù hợp với định hướng và mô hình kinh doanh -> Xây dựng cơ cấu tổ chức -> Chuyển đổi văn hóa ->Thực hiện.
Nhiều startup Việt Nam vội vàng bắt đầu ngay khi nghĩ ra ý tưởng nhưng chưa xác định rõ ràng mục tiêu kinh doanh. Nhiều trường hợp khi startup gọi vốn, nhà đầu tư nhảy vào nhưng hai bên lại bất đồng về giá trị theo đuổi, trong kh iđó các startup này thường đứng trong thế “đi xin vốn” chứ không phải “gọi vốn”, điều này buộc họ phải chiều lòng các nhà đầu tư.
Theo kinh nghiệm nhiều năm tư vấn cho các tập đoàn lớn, ông Robert Trần cho biết: “Việc không theo đuổi những giá trị chung và thống nhất mục tiêu giữa chủ doanh nghiệp và chủ đầu tư là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến thất bại”. Đây cũng là câu trả lời cho câu hỏi của nhiều startup Việt Nam: “Tại sao gọi được vốn nhưng vẫn thất bại?”
Chuyên gia Robert Trần đưa ra lời khuyên “Khi bất đồng mục tiêu cần điềm tĩnh lắng nghe và thuyết phục chủ đầu tư dựa trên những giá trị sản phẩm mang lại, không nên tỏ ra ‘cứng đầu’ nhưng cần phải ‘bám chặt’ mục tiêu ban đầu”.
Robert Trần cho biết: “Trước hết, các doanh nghiệp cần xác định lưu đồ nhằm xác định các bước để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng và xác định số nhân sự cần thiết để vận hành mỗi bộ phận. Từ đó, doanh nghiệp mới vẽ ra cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh. Vì nhầm lẫn này nhiều doanh nghiệp trẻ Việt Nam gặp vấn đề về định biên nhân sự, tức là có khi nhân sự của công ty dư thừa hoặc thiếu hụt ở các bộ phận”.
Cuối cùng, thực hiện là bước quan trọng nhất nhưng lại là chính là khâu “thất bại” của nhiều startup. Có nhiều doanh nghiệp sau khi hoàn thành tất cả chiến lược nhưng lại không thể thực hiện và duy trì công việc kinh doanh.
Thiếu hiểu biết pháp lý
Việc các nhà sáng lập chưa nhận thức rõ về các vấn đề pháp lý cũng là một trong những nguyên nhân đang khiến nhiều startup thất bại. Không ít nhà sáng lập trẻ chỉ quan tâm đến sự phát triển của startup mà không chú ý nhiều đến các rủi ro liên quan đến yếu tố lựa chọn sai loại hình doanh nghiệp. Hậu quả là startup bị đình trệ, bỏ lỡ các cơ hội tốt; đồng thời, gây sứt mẻ quan hệ giữa những người sáng lập do xuất hiện xung đột lợi ích về vốn, quyền sở hữu tài sản hoặc startup phải bồi thường cho các hợp đồng đã ký kết với đối tác.
Bên cạnh đó, vấn đề bản quyền và sở hữu trí tuệ cũng cần được các nhà sáng lập chú trọng. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng tại Việt Nam khi mà vi phạm bản quyền, hàng giả, hàng nhái vẫn đang là vấn nạn gây nhức nhối dư luận và chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để startup có thể nhận được sự bảo hộ từ pháp luật khi cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi về thương hiệu, tránh hậu quả đáng tiếc xảy ra cho startup.
Khi chọn loại hình thương mại điện tử, các startup cần chú ý đến điều khoản sử dụng đối với người dùng khi họ truy cập vào trang web hoặc mạng xã hội của startup. Bởi nếu không, startup có thể gặp phải những rắc rối kiểu như người dùng có thể lợi dụng startup để tuyên truyền thông tin sai sự thật, đả kích gây ảnh hưởng đến bên thứ ba.
Thiếu điều khoản hợp tác, phương thức làm ăn là một thiếu sót thường gặp ở các startup trẻ. Bởi vì trong giai đoạn đầu, những nhà sáng lập thường gắn kết với nhau bằng đam mê, họ chỉ đơn giản nghĩ rằng: Các thành viên chỉ cần góp vốn và công sức để đưa startup phát triển. Các thỏa thuận này thường sơ sài và chỉ được xem là thỏa thuận dân sự Nhưng đến khi dự án khởi nghiệp phát triển tốt và có lợi nhuận, giữa các nhà sáng lập sẽ xảy ra xung đột liên quan đến góp vốn, sử dụng vốn, quyền sở hữu tài sản và phân chia lợi ích. Khi đó, những thỏa thuận miệng không đủ cơ sở pháp lý để giải quyết khiến mâu thuẫn nội bộ dâng cao, ảnh hưởng đến sự sinh tồn của startup.
Nhiều startup trẻ do không có đủ nhận thức về vấn đề pháp lý nên làm nảy sinh các mâu thuẫn lợi ích không đáng có khi có vấn đề phát sinh. Nhẹ thì mất công sức, thời gian và chi phí để giải quyết tranh chấp. Nặng thì startup mất các nhân viên tốt, trung thành, thậm chí có thể đối mặt với những kiện tung gây ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp.
Bài toán “gọi vốn”
Theo ông Don Lam, Tổng giám đốc VinaCapital, Việt Nam rất khó làm Startup bởi vấn đề đầu tiên chính là “tiền đâu ?”. Ngoài ra, Việt Nam còn thiếu hụt một hệ sinh thái bền vững hỗ trợ người trẻ khởi nghiệp. Ông nhấn mạnh: “Startup chính là việc bạn bắt đầu từ con số 0, làm sao vay vốn ngân hàng, chỉ trông chờ vào các quỹ đầu tư chuyên nghiệp, hoặc trông chờ nguồn vốn tư nhân thông qua quen biết… Nhưng nếu không có hệ sinh thái bài bản thì rất khó để gọi vốn đầu tư.”
Vấn đề khởi nghiệp của người trẻ Việt hiện đang gặp quá nhiều khó khăn bởi quy trình ngược với các nước, điều này khiến người Việt Nam khởi nghiệp chậm hơn. Với nhiều điểm hạn chế hiện tại, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam nếu muốn xây dựng một quốc gia khởi nghiệp thì phải xây dựng được một hệ sinh thái khởi nghiệp, phải kêu gọi được những nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường. Bởi người Việt Nam không có thói quen mạo hiểm, nên rất khó để họ bỏ vốn đầu tư lĩnh vực này. Phải có các nhà đầu tư nước ngoài tham gia, họ sẽ xác lập cuộc chơi trước, sau đó nhiều nhà đầu tư trong nước mới mạnh dạn tham gia.
Rào cản thủ tục hành chính
Tuy nhiên, những vấn đề như thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, giấy phép con, khó thoái vốn sau một thời gian đầu tư tại Việt Nam luôn khiến các nhà đầu tư ngoại “chùng chân”. Con số dự án khởi nghiệp trong nước nhận được những khoản đầu tư nước ngoài dừng lại ở mức khá “khiêm tốn”.
Theo thống kê hồi năm 2016, tổng giá trị đầu tư vào các startup tại khu vực Đông Nam Á là khoảng 1,5 tỷ USD. Song ở Việt Nam, con số này chỉ là dưới 100 triệu USD, 80% số tiền còn lại đổ vào Indonesia và Singapore bởi chính sách hỗ trợ startup, gọi vốn của họ tốt hơn nhiều so với Việt Nam.
Ở Singapore, chỉ 1 tuần là giải quyết xong các thủ tục và giải ngân được vốn đầu tư. Ở Thái Lan là 1 tháng, nhưng ở Việt Nam, thông thường phải mất từ 8 tháng tới 1 năm. Bởi để có một bộ hồ sơ được chấp thuận giải ngân vốn, nhà đầu tư phải cung cấp đầy đủ thông tin về nhà đầu tư gồm hộ chiếu của người đại diện pháp luật, giấy đăng kí kinh doanh, điều lệ công ty… Tất cả đều phải được dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, công chứng. Làm xong bộ hồ sơ trên mất 1 tuần, rồi lại mất thêm vài tháng nữa để xin chữ kí của tất cả các bên liên quan. Đó là với 1 nhà đầu tư, nếu có 3 nhà đầu tư ở 3 nước khác nhau, có lẽ phải chờ tới cả năm.
Ngoài ra, còn rất nhiều giấy phép con, vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã đề nghị xóa gần 2.000 giấy phép, nhưng vẫn còn đó mấy nghìn giấy phép con khác.
Ví dụ, trong lĩnh vực thương mại điện tử, nếu có nhà đầu tư nước ngoài tham gia, phải xin giấy phép, ý kiến của Bộ Thông tin & Truyền thông, Bộ Văn Hóa Thể thao & Du lịch, Bộ Công Thương. Như trường hợp của Grab và Uber, hai công ty này còn phải xin thêm ý kiến của Bộ Giao thông vận tải. Thậm chí, nhiều startup đang làm phải tạm dừng để xin thêm giấy phép.
Với những yếu tố như trên thì rõ ràng, khởi nghiệp ở Việt Nam là không hề dễ. Trong thời gian tới, việc xây dựng các hành lang pháp lý và hệ sinh thái khởi nghiệp là thật sự cần thiết để hỗ trợ cho các startup mới bước vào cuộc chơi. Đồng thời, kinh nghiệm từ những người đi trước sẽ giúp doanh nghiệp non trẻ tránh khỏi những “vết xe đổ”, những thất bại không đáng có.