Không để rơi vào "bẫy" thu nhập trung bình
(Tài chính) Nhờ công cuộc đổi mới, Việt Nam chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm nước thu nhập trung bình. Tuy nhiên, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới để tránh nguy cơ sập bẫy thu nhập trung bình.
Trước hết cần khẳng định là Việt Nam chưa thể coi là đã bị rơi vào “bẫy” thu nhập trung bình, vì Việt Nam mới thoát ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp vài ba năm nay - tức là chưa đủ thời gian để có thể khẳng định. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế của thế giới và trong nước cũng chưa hoàn toàn hồi phục tốc độ trước khủng hoảng.
Tuy nhiên, việc cảnh báo sẽ không thừa.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), từ giữa thế kỷ XX đến năm 2010, trong số 124 nền kinh tế thế giới được đánh giá, có 52 nền kinh tế ở mức thu nhập trung bình, trong đó có 30 nền kinh tế đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình, chỉ có 13 nền kinh tế vượt qua được bẫy thu nhập trung bình để trở thành nước có thu nhập cao.
Bẫy thu nhập trung bình là một nguy cơ (được hiểu là chưa hoàn toàn vào trong nhà, nhưng đã ở ngoài sân) nếu không có giải pháp ngăn chặn các triệu chứng đã xuất hiện thì nguy cơ đó sẽ thành hiện thực.
Một số triệu chứng “sập bẫy” thu nhập trung bình mà thế giới cảnh báo là: (1) tăng trưởng chậm lại; (2) năng suất sản xuất mờ nhạt; (3) sự thiếu hụt của dịch chuyển cơ cấu theo đúng nghĩa; (4) khả năng cạnh tranh trong bảng xếp hạng không có dấu hiệu tăng; (5) xuất hiện các vấn đề do tăng trưởng gây ra, như ô nhiễm, tham nhũng, bong bóng bất động sản, chênh lệch giàu nghèo…
Ở nước ta, các dấu hiệu của nguy cơ nói trên biểu hiện trên một số mặt chủ yếu sau đây.
Thứ nhất là tăng trưởng kinh tế (trực tiếp liên quan đến bình quân đầu người). Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2006 đến 2013 đã chậm lại, chỉ đạt 6,06%/năm, trong đó bình quân giai đoạn 2011-2013 chỉ đạt 5,64%/năm, thấp xa so với thời kỳ 1991-2005.
Đến năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP đã “rơi” xuống đáy thấp nhất tính từ năm 2000; năm 2013 và 6 tháng 2014 đã có xu hướng “thoát đáy vượt dốc đi lên” (năm 2013 tăng 5,42%, 6 tháng 2014 tăng 5,18%, cao hơn cùng kỳ 2 năm trước), nhưng vẫn còn là “vùng đáy” tăng trưởng tính từ năm 2000 đến nay. Đây là tốc độ tăng vừa thấp hơn tiềm năng (về tỷ lệ vốn đầu tư/GDP, về tốc độ tăng lực lượng lao động), vừa thấp hơn yêu cầu (chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về mức GDP bình quân đầu người, giải quyết các vấn đề về công ăn việc làm, xã hội, môi trường). Mặc dù GDP bình quân đầu người tính bằng USD của Việt Nam liên tục tăng lên, nhưng chênh lệch với các nước vẫn còn lớn và tăng lên, cả về tính theo tỷ giá hối đoái, cả về sức mua tương đương.
Do vậy, cùng với việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, cần tăng trưởng kinh tế với tốc độ hợp lý, thậm chí cần phải ưu tiên phục hồi tăng trưởng ngay từ cuối năm nay trở đi.
Thứ hai là chất lượng tăng trưởng (đây là yếu tố bền vững của tăng trưởng) gần đây được quan tâm hơn, nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập. Hiệu quả đầu tư và năng suất lao động còn thấp.
Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR còn cao và tăng lên (bình quân thời kỳ 1996-2000 là 4,8 lần; thời kỳ 2001-2005 là 5,2 lần; thời kỳ 2006-2013 là 5,8 lần). Năng suất lao động năm 2013 của cả nước mới đạt 68,7 triệu đồng/người, tương đương với 3.289,2 USD, trong đó của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản mới đạt 27 triệu đồng, tương đương với 1293,6 USD. Tốc độ tăng năng suất lao động cũng chậm lại: bình quân năm thời kỳ 1991-2005 đạt 4,54%, đến thời kỳ 2006-2013 chỉ còn tăng 3,4%. Tỷ trọng đóng góp của năng suất tổng hợp (TFP) đối với tốc độ tăng GDP còn thấp (hiện đạt khoảng 28%); dù có đạt mục tiêu đến 2015 là 31-32% và đến 2020 là 34-35% thì cũng còn thấp xa so với các nước Đông Nam Á (hiện đạt trên 40%).
Thứ ba, tái cơ cấu nền kinh tế chuyển biến chậm. Vấn đề này gần đây được nhấn mạnh và bước đầu đạt được những kết quả, nhưng quá trình khởi động triển khai vẫn còn chậm và kết quả so với yêu cầu còn thấp.
Thứ tư, ngoài các vấn đề đã được xác định như tái cơ cấu, 3 đột phá chiến lược, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cần quan tâm đến một số vấn đề mà Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập về đổi mới thể chế, dân chủ, Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường… Đây là vấn đề lớn, cần được coi là một cuộc đổi mới lần hai để tạo động lực mới.
Thứ năm, cần khắc phục tư duy “nghỉ ngơi”, tư tưởng “thỏa mãn” khi đã đạt được sự chuyển biến đầu tiên, trong khi mức thu nhập trung bình của ta còn là trung bình thấp.