Kích hoạt các giải pháp làm mát bền vững, góp phần ứng phó biến đổi khí hậu

Nguyễn Tâm

Theo các chuyên gia, trước áp lực gia tăng nhiệt độ và tiêu thụ điện năng trong bối cảnh biến đổi khí hậu, việc thúc đẩy các giải pháp làm mát quốc gia theo hướng bền vững là yêu cầu cấp thiết, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ô-dôn.

Công trình xanh là giải pháp làm mát bền vững tại Việt Nam, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ô-dôn.
Công trình xanh là giải pháp làm mát bền vững tại Việt Nam, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ô-dôn.

Nhằm từng bước hiện thực hóa Chương trình hành động quốc gia về làm mát, mới đây, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á tổ chức Họp tham vấn trong khuôn khổ Hỗ trợ kỹ thuật "Xây dựng Chương trình hành động quốc gia về làm mát tại Việt Nam".

Những thách thức lớn từ biến đổi khí hậu

Việt Nam hiện đối mặt với những thách thức ngày càng lớn từ biến đổi khí hậu khi nhiệt độ trung bình gia tăng, hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra thường xuyên hơn.

Cùng với đó là quá trình đô thị hóa nhanh dẫn đến hiệu ứng đảo nhiệt, khiến nhu cầu làm mát tăng vọt ở hầu hết các lĩnh vực, từ công nghiệp, y tế, đời sống dân cư cho đến hạ tầng dữ liệu số.

Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, chỉ riêng trong năm 2020, Việt Nam đã thiệt hại hơn 10 tỷ USD, vì biến đổi khí hậu, trong đó riêng ngành làm mát chịu tổn thất khoảng 518 triệu USD. Bên cạnh đó, ngành làm mát còn là một trong những nguồn tiêu thụ điện lớn nhất và đóng góp đáng kể vào lượng phát thải khí nhà kính.

Bà Nguyễn Đặng Thu Cúc - Phó Trưởng phòng Quản lý phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ô-dôn (Cục Biến đổi khí hậu) cho biết: Năm 2023-2024 được ghi nhận nóng nhất trong lịch sử trên thế giới và ở Việt Nam. 20% điện năng sản xuất ra trên thế giới được sử dụng cho nhu cầu làm lạnh và điều hòa không khí. Nếu không được kiểm soát, lượng phát thải từ việc làm mát dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030 và gấp ba vào năm 2100.

Nhiệt độ trung bình năm của Việt Nam có xu thế tăng, với mức tăng trung bình là 0,89 độ C. Số ngày nắng nóng có xu thế tăng trên phạm vi cả nước. Mức nhiệt tăng cùng với hiệu ứng đảo nhiệt đô thị khiến các thành phố của Việt Nam nằm trong những khu vực đô thị có nguy cơ phải hứng chịu các đợt nắng nóng cực đoan cao nhất trên toàn cầu.

Về tiêu thụ năng lượng trong lĩnh vực làm mát, bà Đặng Hồng Hạnh - Giám đốc điều hành Công ty cổ phần tư vấn năng lượng và môi trường chỉ rõ lĩnh vực làm mát tăng trung bình 2,3%/năm trong giai đoạn 2018–2022. Trong đó, điều hoà không khí dân dụng và thương mại tăng mạnh nhất với mức 7,6%/năm.

Mức tiêu thụ năng lượng là 71,38 TWh (gồm 65,95 TWh từ điện năng và nhiên liệu), chiếm khoảng 25,2% tổng sản lượng điện sản xuất và mua của cả nước. Tổng lượng phát thải trong lĩnh vực làm mát là 64,68 triệu tấn CO2 tương đương (MtCO2e), chiếm khoảng 14% tổng lượng phát thải quốc gia theo kịch bản dự báo.

Trong đó, phát thải gián tiếp (từ tiêu thụ điện năng) là 84,3% (tương đương 54,52 MtCO2tđ); phát thải trực tiếp (từ môi chất lạnh) là 15,7% (tương đương 10,16 MtCO2tđ).

Làm mát - Chìa khóa đạt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính

Theo các chuyên gia, việc xây dựng Chương trình hành động quốc gia về làm mát theo hướng bền vững là chìa khóa để đạt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường sống.

Ông Tăng Thế Cường - Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Làm mát không chỉ là nhu cầu sống còn, mà còn là chìa khóa để đạt được các mục tiêu giảm phát thải, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Do đó, Chương trình hành động quốc gia về làm mát sẽ trở thành nền tảng chính sách vững chắc để chuyển dịch sang các giải pháp làm mát hiện đại và thân thiện môi trường; đồng thời, tích hợp các mục tiêu cụ thể như loại trừ dần các chất làm lạnh có tiềm năng nóng lên toàn cầu cao, thúc đẩy công nghệ hiệu suất năng lượng cao và ứng dụng thiết kế công trình thụ động.

Đặc biệt, lộ trình kiểm soát và loại trừ các chất Hydrofluorocarbon (HFC), dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon được xác định rõ ràng, đồng bộ với các cam kết trong Bản sửa đổi Kigali thuộc Nghị định thư Montreal, với các mốc quan trọng như: Giảm 10% lượng tiêu thụ HFC vào năm 2029 và tiến tới giảm 80% vào năm 2045.

Đồng thời, kế hoạch còn đề xuất áp dụng mô hình “dịch vụ làm mát”, khuyến khích đầu tư vào công trình đạt chuẩn Tòa nhà Năng lượng Gần bằng 0, cùng lộ trình bắt buộc áp dụng nhãn năng lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật cho toàn bộ thiết bị làm mát từ năm 2035.

Nêu rõ tầm quan trọng của ngành làm mát, ông John Robert Cotton - Phó Giám đốc Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á nhấn mạnh: Chuyển đổi sang các giải pháp làm mát bền vững là xu thế tất yếu để các quốc gia ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Việt Nam đang đi đúng hướng khi lựa chọn cách tiếp cận toàn diện và tích hợp nhiều khía cạnh - từ chính sách, công nghệ cho tới tài chính và đào tạo nguồn nhân lực.

"Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á cam kết đồng hành cùng Việt Nam để huy động các nguồn lực quốc tế, hỗ trợ kỹ thuật và tăng cường năng lực cho các bên liên quan nhằm bảo đảm Chương trình hành động quốc gia về làm mát được triển khai thực chất và bền vững", ông John Robert Cotton cho biết.

Nhìn nhận những cơ hội làm mát bền vững mang lại cho Việt Nam, bà Nguyễn Đặng Thu Cúc - Phó Trưởng phòng Quản lý phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn (Cục Biến đổi khí hậu) cho rằng, việc xây dựng Chương trình hành động quốc gia về làm mát mang lại cơ hội để phối hợp liên ngành, liên khu vực, đặc biệt thu hút sự tham gia tích cực của doanh nghiệp và cộng đồng.

Trong quá trình xây dựng chương trình, Việt Nam cũng nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế như Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á - Thái Bình Dương Liên hợp quốc, Liên minh Tăng cường hiệu quả làm mát thông qua các sáng kiến về làm mát thụ động, chuỗi lạnh, phát triển tài chính xanh và chuyển giao công nghệ.

Như vậy, có thể khẳng định, Chương trình hành động quốc gia về làm mát là bước chuyển quan trọng trong cách Việt Nam tiếp cận lĩnh vực năng lượng-môi trường, phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững và cam kết giảm phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050.