Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2010: Thành tựu, hạn chế và bài học rút ra

Theo TCCSĐT

Báo cáo nghiên cứu, đánh giá cuối kỳ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về “Tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 2006 – 2010” đã nêu: Những kết quả đạt được trên lĩnh vực kinh tế đã đưa nước ta tiến mạnh thêm một bước trên chặng đường đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chính trị xã hội ổn định; kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN gắn với hội nhập kinh tế quốc tế bước đầu hình thành và được vận hành thông suốt... Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, sự tăng trưởng đó vẫn chưa đạt được mục tiêu kế hoạch đề ra cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,... cần có giải pháp mới để tiếp tục tăng trưởng ổn định và cao hơn trong thời gian tới.

Những thành tựu nổi bật…

Trong hai năm đầu (2006 – 2007) Việt Nam đã tiến thêm được một bước trên chặng đường phát triển mới, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Sang những năm cuối của thời kỳ kế hoạch, nhất là từ Quý II năm 2007 mặc dù lạm phát trong nước bắt đầu tăng cao, tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động không thuận đến nền kinh tế nước ta, nhưng Việt Nam đã sớm vượt qua và vẫn giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng khá với mức tăng trưởng bình quân trong cả thời kì 2006 – 2010 khoảng 7%; mặt bằng kinh tế - xã hội được nâng lên đáng kể. Điều này được chứng minh qua những chỉ tiêu trong một số lĩnh vực lớn như sau:

Quy mô và năng lực sản xuất của các ngành đều tăng. GDP (tính theo giá trị so sánh) năm 2010 gấp 2 lần so với năm 2000; (tính theo giá trị thực tế tính bằng đồng đô la Mỹ) ước đạt trên 101 tỉ USD, gấp hơn 3,2 lần năm 2000 (31,2 tỉ USD); (theo giá thực tế bình quân đầu người) ước khoảng 1.160 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 1.050 – 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp và trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá.

Cấu trúc kinh tế đã có những thay đổi tích cực, hứa hẹn sáng sủa hơn trong tầm nhìn dài hạn. Giao lưu kinh tế quốc tế phát triển. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006-2010 đạt 56 tỉ USD/năm, bằng 2,5 lần thời kỳ 2001-2005 và tăng 17,2%/năm. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỉ USD năm 2006 đã tăng lên 8 mặt hàng năm 2010.Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn ODA ngày càng tăng và có nhiều thuận lợi. Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỉ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỉ, năm 2008 đạt 11,5 tỉ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều so với năm trước. Năm 2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng vốn FDI thực hiện vẫn đạt 10 tỉ USD vào năm 2009 và khoảng 11 tỉ vào năm 2010 (tăng 157,5% so với năm 2006). Thời kỳ 2006-2010, FDI thực hiện tăng bình quân 25,7%/năm.

Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế trong những năm cuối kỳ kế hoạch. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân 5 năm ở mức khoảng 28% GDP, bội chi ngân sách bình quân chỉ 5,7%. An ninh tài chính quốc gia được bảo đảm, ước tính đến cuối năm 2010 dư nợ chính phủ chiếm khoảng 44,5% GDP. Dư nợ ngoài nước của quốc gia so GDP ở mức an toàn cho phép. Chính sách tiền tệ điều hành linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống ngân hàng thương mại có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng tín dụng; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của hầu hết các ngân hàng đều đạt chuẩn mực quốc tế trên 8%. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư khá cao trong những năm đầu của kỳ kế hoạch, còn 2 năm cuối (2009-2010) tuy có mức thiếu hụt, nhưng không bị phá vỡ cân đối.

Tổng vốn đầu tư được huy động đưa vào phát triển kinh tế - xã hội 5 năm qua theo giá hiện hành đạt khoảng 3.062 nghìn tỉ đồng (tăng 14,4% so với kế hoạch) bằng 42,7% GDP, gấp hơn 2,5 lần so với 5 năm trước đó (2001 – 2005). Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện đáng kể tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Nhiều nhà máy công nghiệp lớn, kỹ thuật cao, nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, cụm công nghiệp được ra đời và đi vào hoạt động hiệu quả, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở tất cả các vùng, miền trong cả nước.

… Và những hạn chế, yếu kém

Những thành tựu cả nước đạt được nêu trên trong bối cảnh bị tác động bởi kinh tế thế giới suy thoái là rất đáng ghi nhận. Song nhìn một cách tổng thể so với yêu cầu thì chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, kinh tế phát triển chưa bền vững vẫn ở dưới mức tiềm năng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, các cân đối vĩ mô còn hạn hẹp, lợi ích mang lại từ tăng trưởng kinh tế không cao. Thể hiện:

Một là, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên và các yếu tố tác động đầu vào (vốn, lao động) của nền kinh tế, còn tác động của các nhân tố tổng hợp (TFP), chủ yếu là nhân tố khoa học, công nghệ... thì rất thấp. Mặt khác, chất lượng các nhân tố tác động vào mô hình tăng trưởng trong thời kỳ 5 năm 2006 – 2010 vẫn chưa có những đột biến tích cực, biểu hiện rõ nét nhất là nguồn vốn sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát nhiều, chất lượng nhân lực còn hạn chế, chưa tạo được động lực cho sự phát triển kinh tế và năng suất lao động.

Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP 5 năm qua chỉ giảm được 0,67 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt ra là phải giảm khoảng 5 – 6 điểm phần trăm). Tương tự, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chỉ tăng khoảng 0,08 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt ra là khoảng 2 – 3 điểm phần trăm); tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP 5 năm qua cũng chỉ tăng khoảng 0,59 điểm phần trăm. Mặt khác, trình độ công nghệ ở nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, chi phí năng lượng, nguyên nhiên liệu cho một đơn vị sản phẩm trong quy trình sản xuất khá lớn, nhưng sản phẩm làm ra lại đơn điệu, chất lượng thấp, giá thành cao... Trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế cũng còn khoảng cách quá xa. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa tạo được sức lan tỏa thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các thành phần kinh tế chưa được khuyến khích phát triển trên cùng một mặt bằng về cơ chế chính sách...

Ba là, nguồn nhân lực kỹ năng lao động, có tay nghề cao thiếu trầm trọng, đang là vật cản kìm hãm chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Chỉ số xếp hạng cạnh tranh của Việt Nam theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã giảm trong giai đoạn 2006 – 2009, từ thứ 64 xuống 75 năm 2009. Năm 2010, tuy đã tăng 16 bậc trong bảng xếp hạng (lên vị trí số 59), nhưng 4 yếu tố cơ bản được coi là ảnh hưởng tới chỉ số cạnh tranh của Việt Nam (gồm lạm phát, kết cấu hạ tầng, lao động có trình độ và tham nhũng) vẫn chưa được cải thiện nhiều. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh chậm phát triển và chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế, dẫn đến hậu quả tăng chi phí trung gian và các yếu tố đầu vào, năng lực cạnh tranh thấp.

Bốn là, tài chính quốc gia còn hạn hẹp; thu ngân sách nhà nước chủ yếu mới đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên và trả nợ, phần lớn vốn đầu tư phát triển phải dựa vào các khoản vay trong nước và ngoài nước thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và huy động vốn để xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục. Gánh nặng kinh phí để chi trả khi các trái phiếu chính phủ đến hạn thanh toán sẽ dễ tạo khả năng bấp bênh trong cân đối ngân sách, trong khi những cân đối này và các cân đối tiền tệ, tín dụng, xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế chưa thật ổn định và còn nhiều yếu tố có thể gây ra tái lạm phát.

Năm là, kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, thiếu đồng bộ gây nhiều hạn chế cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và khả năng hợp tác kinh tế với nước ngoài .Cụ thể, chất lượng đường bộ còn rất thấp và lạc hậu. Các cảng biển chưa có khả năng tiếp nhận tàu có tải trọng lớn. Nhiều cảng hàng không thể tiếp nhận máy bay vào ban đêm hoặc khi thời tiết xấu. Nguồn và lưới điện chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân. Sản lượng điện thương phẩm bình quân đầu người đến năm 2010 chỉ ước đạt 980KWh, thấp hơn so với nhiều nước trên thế giới. Nhiều công trình thủy lợi quá cũ, hạ tầng thuỷ lợi chưa đáp ứng yêu cầu khai thác sử dụng tổng hợp đa mục tiêu. Việc đầu tư xây dựng mạng lưới hạ tầng thông tin, truyền thông tới khu vực nông thôn, đặc biệt là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa còn chậm. Hạ tầng đô thị, đặc biệt là giao thông, cấp thoát nước, thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn vừa thiếu, vừa kém chất lượng đang gây ách tắc cho sự phát triển.

Sáu bài học kinh nghiệm...

Từ những thành tựu đạt đuợc và những tồn tại, thách thức trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm qua, đặc biệt là trong những năm cuối kỳ kế hoạch, khi nền kinh tế nuớc ta chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, với những chống đỡ thành công và sớm ngăn chặn sự sụt giảm kinh tế, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy phát triển trong quá trình hội nhập luôn luôn là bài học bổ ích trong tiến trình hướng tới mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại. Gắn tư duy phát triển kinh tế của đất nước với những nguyên tắc và những quy luật phát triển kinh tế khách quan là nhân tố thúc đẩy sự phát triển bền vững trong tầm nhìn dài hạn.

Thứ hai, nâng cao tính bền vững trong phát triển kinh tế - xã hội – môi trường, luôn coi đây là mục tiêu của đất nước để bảo đảm thỏa mãn cuộc sống vật chất và tinh thần của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Hết sức coi trọng yếu tố khoa học công nghệ, kinh tế tri thức trong mô hình tăng trưởng, lựa chọn các mục tiêu phát triển. Phát triển hài hòa, lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Chú trọng nhân rộng mô hình sản xuất ít tiêu tốn năng lượng, nguyên liệu, ít chất thải. Loại bỏ quan điểm tăng trưởng kinh tế bằng bất cứ giá nào có thể gây tổn hại cho cuộc sống của thế hệ mai sau.

Thứ ba, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững. Qua tác động của những biến động bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu trong những năm cuối kỳ kế hoạch cho ta thấy các cân đối vĩ mô (tài chính, đầu tư, cán cân thanh toán) đã rất hạn hẹp, cơ chế vận hành và trách nhiệm điều hành lại không chặt chẽ, thiếu kiểm tra giám sát nên đã gây ra những đảo lộn dù tức thời và cục bộ nhưng cũng làm giảm sức đề kháng của nền kinh tế. Vì vậy việc cấu trúc lại nền kinh tế mà bắt đầu từ lĩnh vực tài chính, tiền tệ sẽ giúp cho nền kinh tế đất nước hoạt động lành mạnh, bền vững hơn. Mặt khác, cơ cấu lại nền kinh tế phải theo hướng hiện đại trên nền kinh tế tri thức, gắn cơ cấu ngành với cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động, liên kết để cùng phát triển cao hơn, hiệu quả hơn. Đặt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập và phát triển bền vững để xây dựng cơ cấu kinh tế trong nước phù hợp, kết nối được cơ cấu kinh tế trong nước với cơ cấu kinh tế trong khu vực và trên thế giới.

Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác thông tin dự báo điều hành nền kinh tế ở tất cả các ngành, các cấp. Trong bối cảnh hiện nay, bước tiến vượt bậc của công nghệ tin học, truyền thông đã làm cho thế giới như xích lại gần nhau hơn. Điều đó sẽ giúp ích rất lớn và làm cơ sở tốt cho mỗi nước nghiên cứu, xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển phù hợp với xu thế thời đại, tận dụng những cơ hội, loại trừ những nguy cơ để phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn. Chính vì vậy, công tác thu thập và phân tích thông tin là rất cần thiết, chiếm vị trí không thể thiếu được trong công tác nghiên cứu xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế càng đòi hỏi phải tiếp cận với nhiều nguồn thông tin để so sánh, năng cao chất lượng công tác phân tích, đánh giá, dự báo.

Thứ năm, hình thành cơ chế thị trường đầy đủ, khơi dậy các nguồn lực phát triển trong nước và thu hút vốn nước ngoài. Đến nay Việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, tham gia hầu hết trong các tổ chức kinh tế toàn cầu, từng bước thiết lập hệ thống các cơ chế chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong thương mại xuất, nhập khẩu, thu hút vốn và đầu tư. Tuy nhiên, những cơ chế chính sách, hệ thống luật pháp của chúng ta vẫn chưa đầy đủ và đồng bộ, làm hạn chế khả năng mở rộng các mối bang giao kinh tế quốc tế, dẫn tới nhiều thua thiệt và thị trường trong nước cũng bị ảnh hưởng, không hoàn thiện, méo mó, thiếu minh bạch... Việc chậm xây dựng đồng bộ các yếu tố thị trường và chưa thực sự tôn trọng quy luật kinh tế thị trường, cũng như sự can thiệp sâu của Nhà nước bằng những mệnh lệnh hành chính sẽ làm cho thị trường không phát triển hoàn thiện. Do vậy việc đổi mới các cơ chế, chính sách theo hướng đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế là bài học cần thiết để thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế, phát triển sản xuất kinh doanh trong nước.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng, hiệu lực của bộ máy điều hành. Trọng tâm là phải đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh; thực hiện quy chế dân chủ và công khai ở cơ sở và các cấp chính quyền; kiện toàn hợp lý tổ chức bộ máy nhà nước; nhanh chóng tách chức năng quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh ở các bộ, ngành Trung ương. Nhìn lại suốt thời kỳ đổi mới, những cơ chế chính sách được ban hành đã phát huy tác dụng tối đa việc giải phóng lực lượng sản xuất, đưa đất nước vượt qua ngưỡng nước nghèo và kém phát triển trở thành nước có thu nhập trung bình. Bước tiến đó là khá lớn, tuy nhiên, so với yêu cầu hội nhập và toàn cầu hóa để tiến tới mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì những cơ chế chính sách hiện tại vẫn chưa đủ sức tạo bước đột phá để phát triển cao hơn, nhanh và chất lượng hơn. Chính vì vậy, sự đổi mới cơ chế chính sách trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa mang tính đột phá cao là bài học thiết thực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển có chất lượng, hiệu quả và tăng trưởng nhanh. Điều đó đòi hỏi bộ máy điều hành ở các cấp phải được đổi mới, đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước và cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành cần phải được đào taọ và đào tạo lại để nâng cao trình độ, có khả năng đảm trách công việc được phân công. Ngoài ra, phạm vi quyền hạn và cơ chế trách nhiệm trong từng cương vị và lĩnh vực công tác cần phải được xác lập rõ ràng, minh bạch từ Trung ương đến địa phương...