Bộ Tài chính công bố:

Nhiệm vụ tài chính-ngân sách chủ yếu năm 2020 và kế hoạch 03 năm 2020-2022

D.Bùi (T/h)

Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, tăng cường kỷ cương, kỉ luật ngân sách, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh; thực hiện cơ cấu lại NSNN gắn với sắp xếp phù hợp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đổi mới khu vực sự nghiệp công, ưu tiên dành nguồn thực hiện cải cách tiền lương và các chính sách an sinh xã hội.

Bộ Tài chính công bố nhiệm vụ tài chính-ngân sách chủ yếu năm 2020 và kế hoạch 03 năm 2020-2022.
Bộ Tài chính công bố nhiệm vụ tài chính-ngân sách chủ yếu năm 2020 và kế hoạch 03 năm 2020-2022.

Xu thế kinh tế thế giới những năm tới phức tạp, khó lường

IMF (tháng 7/2019) đã hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu, xuống còn 3,2% trong năm 2019 - mức thấp nhất trong vòng 10 năm kể từ cuộc khủng hoảng năm 2009. Liên kết và tự do hóa thương mại tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, nhưng bảo hộ và căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn có xu hướng gia tăng và lan rộng, tạo môi trường bất ổn cho đầu tư, kinh doanh và hoạt động thương mại. Ngoài ra, các vấn đề rủi ro như nước Anh rời khỏi Liên minh Châu Âu (Brexit) không thỏa thuận; tăng trưởng chậm lại của các đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam như Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, khối ASEAN-5[1]; xung đột sắc tộc, tranh chấp biên giới lãnh thổ, chủ quyền quốc gia trên biển… đều có thể ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam.

Đối với Việt Nam, các tổ chức tài chính quốc tế đánh giá tích cực, năm 2019, tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 6,5-6,8%, cao nhất trong khu vực ASEAN. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản từ nền tảng vĩ mô tiếp tục được củng cố, môi trường kinh doanh được cải thiện, cơ cấu kinh tế từng bước được chuyển dịch hợp lý, vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, chủ yếu là những yếu kém nội tại chưa được khắc phục của nền kinh tế, như: ổn định vĩ mô chưa thực sự vững chắc, dư địa chính sách tiền tệ và tài khóa được cải thiện nhưng vẫn hạn hẹp; tiến độ cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại còn chậm, nhiều vấn đề tài chính lớn của các khu vực này chưa được giải quyết; sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế còn yếu; hạ tầng kinh tế chậm được cải thiện; chất lượng nguồn nhân lực chưa được nâng cao, chưa góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ trên nền tảng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Đối với năm 2020, mục tiêu tăng trưởng được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 85/2019/QH14 ngày 11/11/2019 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 là 6,8%; dự kiến các năm 2021-2022 khoảng 6,8%; là mức tương đối tích cực trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu và đặc biệt là tăng trưởng của các đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam có xu hướng giảm; cạnh tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn có xu hướng gia tăng và lan rộng, trong khi nền kinh tế của nước ta hội nhập ngày càng sâu những yếu kém nội tại của nền kinh tế chậm được khắc phục.

Mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu về tài chính - NSNN năm 2020 và kế hoạch 03 năm 2020-2022

Trong bối cảnh thế giới và trong nước đan xem thuận lợi, khó khăn; với vị trí là năm có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020, kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020, thực hiện các mục tiêu chiến lược KT-XH và chiến lược tài chính đến năm 2020, mục tiêu NSNN năm 2020 được xác định là “Phấn đấu thực hiện đến mức cao nhất các mục tiêu tài chính – NSNN giai đoạn 2016-2020. Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, tăng cường kỷ cương, kỉ luật ngân sách, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh; thực hiện cơ cấu lại NSNN gắn với sắp xếp phù hợp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đổi mới khu vực sự nghiệp công, ưu tiên dành nguồn thực hiện cải cách tiền lương và các chính sách an sinh xã hội”.

Dự toán thu NSNN năm 2020 được Quốc hội thông qua là 1.512,3 nghìn tỷ đồng, trong đó thu nội địa là 1.264,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 83,6% tổng thu NSNN[2]. Dự toán chi NSNN năm 2020 là 1.747,1 nghìn tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển là 470,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,9% tổng chi NSNN[3]; chi thường xuyên[4] là 1.056 nghìn tỷ đồng, chiếm 60,5% tổng chi NSNN[5]; nếu bao gồm chi tạo nguồn cải cách tiền lương và tinh giản biên chế thì chiếm khoảng 63,9% tổng chi ngân sách.

Tỷ lệ bội chi NSNN năm 2020 là 3,44%GDP[6], trong đó bội chi NSTW là 3,2%GDP và bội chi NSĐP là 0,24%GDP. Đến cuối năm 2020, dự kiến nợ công là 54,3%GDP, nợ Chính phủ là 48,5%GDP, nợ nước ngoài của quốc gia là 45,5%GDP.

Với kết quả đạt được năm 2016-2018, đánh giá năm 2019 và dự toán năm 2020 đã được Quốc hội quyết định, tính chung về cơ bản đạt và vượt các mục tiêu kế hoạch tài chính 5 quốc gia giai đoạn 2016-2020.

- Trên cơ sở các mục tiêu về tài chính-NSNN theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị, đánh giá các kết quả tài chính – ngân sách 5 năm 2016-2020; các chủ trương, định hướng lớn của Đảng về sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đổi mới khu vực sự nghiệp công, phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài, cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội,... tại các Nghị quyết Trung ương (Khóa XII); mục tiêu đặt ra đối với kế hoạch tài chính - NSNN 03 năm 2020-2022 là: “Phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia 2016-2020; tiếp tục cơ cấu lại NSNN và nợ công, đảm bảo an toàn, bền vững; huy động hợp lý từ nền kinh tế vào NSNN trên cơ mở rộng cơ sở thu, tăng cường quản lý thu, cải cách hiện đại hoá thủ tục hành chính thuế; quản lý, phân bổ, sử dụng chặt chẽ, hiệu quả chi NSNN phù hợp với khả năng cân đối nguồn thu, thúc đẩy tăng trưởng bền vững, giải quyết các vấn đề an sinh và công bằng xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính - ngân sách; đồng thời thực hiện có hiệu quả các giải pháp tạo nguồn cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội”.

Thu NSNN 03 năm 2020-2022 phấn đấu đạt khoảng 21-22%GDP, trong đó thu nội địa chiếm trên 84% tổng thu NSNN. Thực hiện Đề án cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội theo Nghị quyết số 27, số 28/NQ-TW Hội nghị Trung ương 7 Khóa XII, phấn đấu tỷ trọng chi đầu tư phát triển khoảng 26% tổng chi NSNN, bội chi NSNN các năm 2021, 2022 đạt khoảng 3,5% (tương ứng mục tiêu Nghị quyết số 25/2016/QH14 cho giai đoạn 2016-2020).

Để thực hiện các nhiệm vụ tài chính – ngân sách năm 2020 và kế hoạch tài chính – ngân sách 03 năm 2020-2022, cần tập trung chủ yếu vào các giải pháp sau

Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật về tài chính - ngân sách; hướng dẫn thực hiện tốt Luật quản lý thuế và pháp luật về thuế, Luật chứng khoán (sửa đổi), Nghị quyết về xử lý nợ thuế đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp thuế,… phù hợp với các cam kết quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Đồng thời, siết chặt kỉ luật, kỉ cương, kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tài chính - ngân sách.

Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế: Tiếp tục triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, phấn đấu đạt và vượt các mục tiêu tài chính – ngân sách, nợ công giai đoạn 2016 – 2020 đã đặt ra tại các Nghị quyết; quản lý chặt chẽ thu, chi NSNN, bội chi, nợ công; đẩy mạnh cơ cấu lại NSNN.

Tiếp tục cơ cấu lại các khoản thu, nghiên cứu mở rộng cơ sở thu, tăng cường quản lý thu ngân sách; tăng cường thanh tra, kiểm tra, chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương mại, quản lý chặt chẽ giá tính thuế, chống chuyển giá, trốn lậu thuế; xử lý thu hồi nợ đọng thuế, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thuế, phí, lệ phí và thu khác vào NSNN; đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế; thực hiện nghiêm quy định về việc giao đất, cho thuê đất, cấp quyền khai thác tài nguyên, bán, chuyển nhượng, cho thuê tài sản công và quyền khai thác tài sản công theo hình thức đấu giá theo quy định của pháp luật.

Điều hành và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi ngân sách nhà nước theo dự toán được giao, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức theo quy định; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin, bảo đảm xây dựng nền hành chính quốc gia hiện đại, kết nối thông suốt, đi đôi với tăng cường giám sát trong quản lý thu, chi ngân sách nhà nước…

Kiểm soát chặt chẽ bội chi NSTW, bội chi NSĐP và mức vay nợ; giám sát chặt chẽ việc quản lý và sử dụng vốn vay.

Quyết liệt triển khai các Nghị quyết số 18, số 19 về tinh giản biên chế, thu gọn bộ máy hành chính và đổi mới khu vực sự nghiệp công lập; thực hiện các giải pháp tạo nguồn cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội tại nghị quyết số 27, số 28 để đảm bảo thực hiện thành công đề án cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội, đồng thời thực hiện các mục tiêu cơ cấu lại ngân sách, nợ công, bảo đảm các cân đối lớn, góp phần ổn định vĩ mô vững chắc và hỗ trợ tích cực các mục tiêu phát triển KT-XH.

---------------------

[1] Theo Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới của Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) tháng 7 năm 2019 Tăng trưởng kinh tế năm 2018, đánh giá năm 2019 và dự kiến năm 2020 của Mỹ tương ứng là 2,9%, 2,6%, 1,9%; Liên minh Châu Âu là 1,9%, 1,3%, 1,6%; Nhật Bản là 0,8%, 0,9% và 0,4%; Trung Quốc là 6,6%, 6,2% và 6%; Khối ASEAN-5 là 5,2%, 5% và 5,1%.

[2] Tăng dần qua các năm, bình quân giai đoạn 2016-2018 khoảng 80,5%, năm 2019 ước 82%.

[3] Tăng dần qua các năm, dự toán năm 2017 là 25,7% , năm 2018 là 26,2%, năm 2019 là 26,3%, vượt mục tiêu giai đoạn 2016-2020 là bình quân 25-26%.

[4] Không bao gồm chi tạo nguồn cải cách tiền lương, tinh giản biên chế, tính cả chi tạo nguồn cải cách tiền lương và tinh giản biên chế thì tỷ trọng dưới 64%.

[5] Giảm dần qua các năm, dự toán 2017 là 64,4%, năm 2018 là 61,8%, năm 2019 là 61,2%, vượt mục tiêu giai đoạn 2016-2020 là dưới 64%

[6] Giảm dần qua các năm, bình quân giai đoạn 2011-2015 khoảng 13%, giai đoạn 2016-2018 khoảng 4%, năm 2019 ước 3,2%.