Nỗ lực giữ mặt bằng lãi suất huy động
Nếu lãi suất tiết kiệm ở mức khó hấp dẫn thì hệ thống ngân hàng khó thu hút được vốn cho nền kinh tế, các chuyên gia lưu ý.
Hiện nay vẫn có sự mất cân đối trong hệ thống tài chính Việt Nam khi khu vực tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản hệ thống và đảm nhận cả vai trò chính trong cung ứng vốn cho nền kinh tế. Chính vì thế, chênh lệch đầu vào – đầu ra của lãi suất tương đối thấp: 2,6-2,7% so với khu vực là 2,9%.
Giảm lãi suất huy động
Kể từ cuối năm 2019 đến nay, trên thị trường 1 (giữa ngân hàng thương mại và các tổ chức doanh nghiệp, dân cư), lãi suất tiền gửi ghi nhận bước giảm 30 – 50 điểm cơ bản với kỳ hạn trên 6 tháng ở một số ngân hàng thương mại nhỏ, thu hẹp khoảng cách với các nhóm ngân hàng thương mại còn lại.
Hiện, lãi suất huy động nằm trong khoảng 4,1 - 5%/năm với kỳ hạn dưới 6 tháng, 5,3 - 7,4%/ năm với kỳ hạn 6 đến dưới 12 tháng và 6,4 - 7,5%/năm với kỳ hạn 12, 13 tháng.
“Chủ trương hạ lãi suất từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã tiếp tục có tác động đến xu hướng lãi suất khi vừa bước sang năm mới, thời điểm các chỉ tiêu an toàn của năm cũ đã phải hoàn tất”, các chuyên gia của SSI nhấn mạnh.
Sang năm 2020, SSI cho rằng lãi suất huy động có khả năng tiếp tục hạ dựa trên 2 nền tảng là thanh khoản hệ thống ngân hàng và định hướng từ Chính phủ. Giá cả hàng hóa và thị trường ngoại hối là các biến số có thể làm nhanh hoặc chậm việc hạ lãi suất.
Việc giảm lãi suất ở kỳ hạn dài sẽ vẫn có khoảng cách giữa các nhóm ngân hàng vì định hướng giảm tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn sẽ còn gần 3 năm nữa mới kết thúc.
Tuy vậy, SSI khẳng định “những diễn biến vừa qua cho thấy việc kiểm soát các ngân hàng nhỏ đã có hiệu quả, từ đó hạn chế bớt các cuộc chạy đua lãi suất trong tương lai”.
Theo đánh giá của TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, năm 2019, các nước trên thế giới đa số giảm lãi suất. Thống kê có 63 ngân hàng trung ương giảm lãi suất và tổng số 148 lần giảm, chẳng hạn Ngân hàng Trung ương Mỹ (FED) giảm 3 lần.
Tuy nhiên, năm nay, các nước cũng đã giảm đà cắt giảm lãi suất, nghĩa là có thể tiếp tục giảm nhưng tần suất không nhiều do lãi suất hiện nay thấp, không còn nhiều dư địa để giảm, nên bắt buộc các nước phải dùng chính sách tài khóa.
Bên cạnh đó, một số nước quan ngại về lạm phát nên sẽ không muốn giảm lãi suất quá nhiều, nhất là trong bối cảnh giá dầu và giá vàng vẫn còn nhiều biến động sẽ khiến lạm phát bùng phát trở lại.
Lãi suất huy động khó tăng mạnh trong thời gian tới |
Chênh lệch đầu vào và đầu ra thấp
Ts. Cấn Văn Lực cho biết quan điểm của Việt Nam trong năm nay là lãi suất cơ bản theo hướng ổn định. Lãi suất đầu vào có thể nhích lên ở một số thời điểm. Nguyên nhân là do nhu cầu huy động vốn cho nền kinh tế vẫn còn lớn, nhất là vốn trung dài hạn. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng phải đáp ứng chuẩn Basel II; tuân thủ Thông tư 22 theo hướng giảm dần dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm xuống còn 37%.
Tuy nhiên, chuyên gia này cho rằng các ngân hàng phải để ý hơn trong việc huy động tăng vốn trung và dài hạn. Nguyên nhân là bởi dù thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn phát triển tích cực nhưng không quá đột biến, tăng 7-10%. Trong khi đó, nhu cầu về tín dụng còn khá lớn. Năm nay, Ngân hàng Nhà nước định hướng tăng trưởng tín dụng 14%.
Đối với lãi suất đầu ra, trong bối cảnh các nước trên thế giới ít giảm lãi suất, Việt Nam cũng lưu ý các kênh có biến chuyển như vàng, chứng khoán, bất động sản nên cần phải cân nhắc, nếu lãi suất tiếp kiệm ở mức khó hấp dẫn thì hệ thống ngân hàng khó thu hút được vốn cho nền kinh tế.
Do đó, lãi suất đầu ra rất khó giảm, bởi lãi suất hiện nay không phải là điểm nghẽn về tín dụng của nền kinh tế. Theo tính toán của ông Lực, lãi suất thực sau khi đã trừ đi lạm phát đang ở mức trung bình so với khu vực.
Cụ thể, trung bình 5 năm qua lãi suất thực ở mức 4,8-5%, vẫn ở mức trung bình cao. Nguyên nhân là do chi phí giao dịch toàn bộ nền kinh tế còn cao, thị trường vốn chưa phải là phát triển, chủ yếu phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng. Chính vì thế, chênh lệch đầu vào - đầu ra tương đối thấp: 2,6-2,7% so với khu vực là 2,9%.
Bên cạnh đó, thách thức đối với nền kinh tế năm nay là lạm phát tăng hơn so với năm ngoái do giá thịt lợn tăng mạnh những tháng cuối năm 2019 và đầu năm 2020, dự báo lạm phát tháng 1/2020 tương đối cao.
Đồng thời, căng thẳng Mỹ - Iran cũng khiến giá dầu và vàng tăng những ngày đầu năm. Vì vậy, việc điều hành chính sách tiền tệ phải thật sự thận trọng mới đảm bảo được mục tiêu lạm phát trong năm nay.
“Nếu lãi suất đầu vào vẫn được giữ như thời điểm cuối năm 2019, nghĩa là giảm nhẹ một chút thì đã là thành công”, ông Lực đánh giá.