Ðổi mới, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA
(Tài chính) Nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng vào thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng, năng lượng, y tế, giáo dục và đào tạo; xóa đói, giảm nghèo; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu... Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, nguồn và phương thức viện trợ ODA cũng có nhiều thay đổi, đòi hỏi Chính phủ, các bộ, ngành phải thích ứng để tranh thủ được nguồn vốn quý báu này.
Trải qua 20 năm đồng hành trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội đất nước, quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam với các nhà tài trợ không ngừng được củng cố và phát triển. Hiện ở Việt Nam có hơn 50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động. Qua 20 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) hằng năm, tổng giá trị vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ (NTT) đạt 78,195 tỷ USD.
Sự ủng hộ to lớn nói trên cho thấy, cộng đồng quốc tế luôn đồng tình và cổ vũ mạnh mẽ công cuộc đổi mới và chính sách phát triển đúng đắn của Chính phủ Việt Nam, thể hiện sự tin tưởng của các NTT vào hiệu quả tiếp nhận và sử dụng vốn ODA của Việt Nam. Bên cạnh những kết quả tích cực, chúng ta cũng thấy rằng, quá trình quản lý, sử dụng ODA ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Ðó là năng lực hấp thu viện trợ quốc gia chưa cao, tiến độ thực hiện và giải ngân vốn ODA còn chậm so với kế hoạch, thủ tục trong nước vẫn còn phức tạp, khác biệt với quy định của các nhà tài trợ quốc tế...
Nhận thức rõ việc thực hiện các chương trình, dự án ODA có ý nghĩa quan trọng, dưới sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện tình hình giải ngân vốn ODA. Hai năm qua, giải ngân của một số NTT lớn (Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới (WB)) đã có tiến bộ vượt bậc. Tỷ lệ giải ngân của Nhật Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ nhì và năm 2012 đứng thứ nhất thế giới; tỷ lệ giải ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 2012.
Trong bối cảnh mới, khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, yêu cầu về đối thoại chính sách giữa Chính phủ Việt Nam và các NTT phải sâu hơn về nội dung, rộng hơn về phạm vi tham gia của các bên vào quá trình phát triển và kết quả đối thoại cần được theo dõi và triển khai trong đời sống thực tế. Ðể đáp ứng yêu cầu này, cuối năm 2012, Chính phủ Việt Nam và các NTT thống nhất thay đổi phương thức và cách thức tổ chức các Hội nghị CG.
Theo đó, từ năm 2013, hai bên cải tiến CG thành Diễn đàn Ðối tác phát triển Việt Nam thường niên (VPDF) để tập trung nhiều hơn cho đối thoại về các chính sách phát triển. Các NTT sẽ không đưa cam kết vốn ODA và vốn vay ưu đãi như trước đây vì trong bối cảnh phát triển mới của Việt Nam, các bên quan tâm đến kết quả đầu ra hơn là việc huy động các nguồn lực đầu vào, đồng thời, xuất phát từ thực tế đó, các NTT có thể đưa ra cam kết bất cứ thời điểm nào trong năm. Ðiều này sẽ có lợi cho sự phát triển quan hệ hợp tác phát triển hiệu quả giữa Việt Nam và các NTT trong bối cảnh mới.
Vừa qua, tại Hội nghị kỷ niệm 20 năm quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các NTT, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng khẳng định, trong giai đoạn mới, Chính phủ coi trọng vấn đề bảo đảm nguồn lực đối ứng cho các dự án sử dụng vốn ODA một cách kịp thời, phù hợp, là sự thể hiện nỗ lực và trách nhiệm cao của Việt Nam trong quan hệ đối tác hợp tác phát triển. Thủ tướng cũng cam kết mạnh mẽ rằng, Việt Nam luôn trân trọng và quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn ODA của cộng đồng quốc tế.
Trong các phiên họp Chính phủ thường kỳ, Thủ tướng luôn yêu cầu các bộ, ngành liên quan như Tài chính, Kế hoạch và Ðầu tư, Giao thông vận tải ưu tiên bố trí, nỗ lực tìm kiếm các nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA, nhất là cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, lưới điện... Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam Vích-to-ri-a Qua-qua cho rằng, Việt Nam hiện đã là một quốc gia thu nhập trung bình, một điều hoàn toàn tự nhiên là mối quan hệ đối tác và các nguồn tài trợ đang thay đổi. Kinh nghiệm cho thấy mối quan hệ đối tác ODA sẽ cần phải sâu rộng hơn và thậm chí cần tập trung hơn vào ý tưởng, tri thức và các giải pháp phát triển.
Ðể đáp ứng được sự thay đổi này, ODA cần phải bao hàm nhiều mặt hơn trước đây, là một gói tổng thể các ý tưởng, tri thức và tài chính. Nguồn vốn ODA cần được sử dụng một cách chiến lược hơn và cẩn trọng hơn để huy động các nguồn vốn tư nhân bổ sung cho các nguồn lực công.
Trước đó, cuối tháng 9 vừa qua, tại Trụ sở WB tại Oa-sinh-tơn (Hoa Kỳ), sau khi có buổi làm việc với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Giám đốc Ðiều hành WB S.M.In-đra-oa-ti cho rằng, để có thể phát huy hiệu quả các nguồn hỗ trợ của nhóm WB, Chính phủ Việt Nam cần thúc đẩy nhanh hơn nữa tiến độ giải ngân nguồn tài trợ, coi đây là trọng tâm thời gian tới. Hiện nay, Ban lãnh đạo WB đang xúc tiến thảo luận hỗ trợ Việt Nam chương trình tài trợ của Hiệp hội Phát triển Quốc tế-IDA giai đoạn 2014-2017 (IDA 17). Nếu Việt Nam tăng cường chất lượng, tiến độ giải ngân thì sẽ tác động rất tích cực quá trình thảo luận này.
Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam V.Qua-qua cho rằng, nguồn vốn ODA chưa được giải ngân còn rất lớn, nếu Việt Nam giải ngân được khoảng ba đến bốn tỷ USD/năm vốn ODA cam kết thì cũng bảo đảm nguồn ODA trong vòng bốn đến sáu năm tới. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn được nhận tài chính ưu đãi từ WB trong khuôn khổ IDA 17.
Như vậy, Việt Nam có đủ thời gian để chuyển đổi một cách nhịp nhàng sang việc sử dụng nhiều hơn những nguồn tài chính khác bên cạnh ODA truyền thống. Bà V.Qua-qua khuyến nghị: Việt Nam cũng cần xây dựng năng lực để sử dụng tối đa các nguồn tài chính khác mà không làm ảnh hưởng đến bền vững nợ và ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường hệ thống tài chính trong nước, bao gồm việc xây dựng thị trường tài chính nội địa và cải thiện khả năng sẵn sàng tiếp cận nguồn tài chính quốc tế với mức giá chấp nhận được là một phần quan trọng trong kế hoạch này.
Thực tế quá trình hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các NTT, chúng ta đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm phong phú, có giá trị cho giai đoạn tiếp theo, đó là: phát huy vai trò làm chủ các mục tiêu phát triển của quốc gia, ngành và địa phương; phải có nguồn lực đối ứng, kể cả nguồn tài chính và nguồn vốn nhân lực có chất lượng; sự nhận thức đầy đủ về bản chất nguồn vốn ODA, năng lực con người nắm bắt chủ trương, chính sách và những ưu tiên phát triển của quốc gia, ngành và địa phương.
Việt Nam sẽ sử dụng hiệu quả, tập trung hơn nguồn vốn ODA để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quy mô lớn, có giá trị và tạo "cú huých", tác động lan tỏa đối với sự phát triển chung của cả nước, cũng như các bộ, ngành, địa phương, nhất là đối với những dự án đầu tư công quan trọng, khó có khả năng thu hút đầu tư của khu vực tư nhân hoặc sử dụng các nguồn vốn vay thương mại. Vốn ODA và vốn vay ưu đãi cũng sẽ được sử dụng như nguồn bổ trợ nhằm khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thông qua nhiều mô hình, trong đó có hợp tác đối tác công-tư (PPP).