Pháp luật về chứng quyền có bảo đảm - Kinh nghiệm của Đài Loan và một số gợi ý cho Việt Nam
Đài Loan là một trong những điển hình trong việc vận hành thành công thị trường chứng quyền có bảo đảm - Coverred Warrant (CW). Tháng 6/1997, Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) Đài Loan (TWSE) đồng ý mở thị trường CW (CW ở Đài Loan được gọi với tên gọi là Call/Put Warrant). Sau hai thập kỷ vận hành, Đài Loan trở thành thị trường CW đứng thứ 2 tại châu Á, chỉ sau Hồng Kông. Một trong những yếu tố dẫn đến thành công của Đài Loan là việc hoàn thiện khung pháp lý về CW. Chính vì vậy, với bài viết này, chúng tôi muốn trình bày một số nội dung nổi bật của pháp luật về CW tại Đài Loan dưới góc nhìn so sánh với pháp luật về CW tại Việt Nam và đưa ra một số gợi ý, khuyến nghị cho Việt Nam.
Quy định về tổ chức phát hành
Theo quy định của TWSE, các tổ chức phát hành CW là bên thứ ba độc lập với tổ chức phát hành tài sản cơ sở và đã được cấp phép hoạt động bảo lãnh phát hành, môi giới và tự doanh chứng khoán. Tổ chức phát hành (TCPH) phải nộp đơn và được Ủy ban Giám sát Tài chính Đài Loan (FSC) công nhận đủ điều kiện trở thành TCPH CW.
Các điều kiện đó bao gồm: (i) Tài sản ròng của tổ chức không ít hơn 3 tỷ Đài tệ (TWD) và không thấp hơn vốn thực góp của tổ chức theo báo cáo tài chính (BCTC) gần nhất đã được kiểm toán và xác nhận bởi tổ chức kiểm toán được cấp phép; (ii) Tỷ lệ an toàn vốn theo quy định trong khoảng thời gian 06 tháng trước ngày nộp đơn không thấp hơn 200%; (iii) Không thuộc diện bị FSC cảnh báo theo quy định tại Khoản 1, Điều 66 của Luật Chứng khoán Đài Loan trong 03 tháng gần nhất; (iv) Không thuộc diện bị FSC yêu cầu sa thải giám đốc, người giám sát, cán bộ quản lý của TCPH, hoặc bất cứ hình thức nào để miễn nhiệm và thay thế người có trách nhiệm hoặc các vị trí tương tự trong vòng 06 tháng gần nhất; (v) Không bị đình chỉ hoạt động kinh doanh bởi FSC trong 01 năm gần nhất; (vi) Không chịu bất kỳ hình thức xử phạt nào của FSC liên quan đến việc hủy bỏ hoạt thu hồi giấy phép hoạt động trong 02 năm gần nhất; và (vii) Không bị áp dụng bất cứ hình thức xử phạt nào nhằm đình chỉ hoặc ngăn cấm giao dịch trong 01 năm gần nhất theo quyết định của TWSE, SGDCK Đài Bắc (TPEx) hay Sở Giao dịch Hợp đồng tương lai Đài Loan (TAIFEX).
Ngoài ra, FSC có thể từ chối công nhận TCPH CW hoặc có thể hủy và thu hồi giấy chứng nhận đã cấp nếu như TCPH: (i) cung cấp hồ sơ không đầy đủ, không bổ sung hồ sơ hoặc hồ sơ các thông tin sai lệch hoặc không tiết lộ các thông tin yêu cầu; (ii) thiếu các biện pháp quản lý rủi ro thích hợp; (iii) có mất mát lớn về tín dụng mà vẫn chưa được giải quyết hoặc chưa quá 04 năm kể từ ngày được giải quyết; (iv) có tranh chấp ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài chính của tổ chức; (v) không tiến hành BCTC hoặc không thể tiến hành hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ của mình.
Với những quy định khắt khe trên, số lượng TCPH ở Đài Loan là không nhiều với chỉ khoảng 18 TCPH. Thế nhưng, với vai trò quan trọng trong việc tạo lập thị trường và quản trị rủi ro của các TCPH, nhờ vào những quy định khắt khe này mà thị trường Đài Loan đã và đang vận hành rất ổn định và bền vững, tạo đà để đưa thị trường nhanh chóng vươn lên vị trí thứ 5 thế giới về giá trị giao dịch.
Đối với thị trường Việt Nam, TCPH CW là các công ty chứng khoán (CTCK) đủ điều kiện về hiệu quả kinh doanh, quy mô vốn chủ sở hữu.
Theo quy định tại Khoản 12, Điều 71 Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán (Nghị định 58), được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 60/2015/NĐ-CP (Nghị định 60), CTCK được chào bán CW khi đáp ứng được các điều kiện sau đây:
(i) Không có lỗ lũy kế, có vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu đạt tối thiểu 1.000 tỷ đồng trở lên theo BCTC năm đã được kiểm toán của năm gần nhất và BCTC bán niên gần nhất đã kiểm toán soát xét;
(ii) Được cấp phép đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán (KDCK);
(iii) Ký quỹ chứng khoán cơ sở hoặc tiền để bảo đảm thanh toán cho đợt chào bán tại ngân hàng lưu ký không phải là người có liên quan;
(iv) Không bị đặt trong tình trạng cảnh báo, tạm ngừng hoạt động, đình chỉ hoạt động hoặc trong quá trình hợp nhất, sáp nhập, giải thể, phá sản; và
(v) BCTC của năm liền trước đã được kiểm toán bởi công ty kiểm toán được chấp thuận không có ngoại trừ.
Có thể thấy quy định của Đài Loan và của Việt Nam về TCPH CW có điểm tương đồng là đều tập trung vào các tiêu chuẩn như: (i) tiềm lực tài chính; (ii) phạm vi hoạt động; (iii) hiệu quả hoạt động kinh doanh; (iv) khả năng phòng ngừa rủi ro.
Chúng tôi cho rằng đây là những điều kiện tối thiểu để xác lập tư cách TCPH CW để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả trong quá trình vận hành CW. So với quy định tại Đài Loan, tiêu chuẩn đặt ra đối với TCPH của Việt Nam thấp hơn. Điều này là phù hợp với quy mô thị trường chứng khoán (TTCK) và tiềm lực của các CTCK tại Việt Nam.
Tuy vậy, chúng tôi cho rằng vẫn cần phải đặt ra một số tiêu chuẩn cần thiết khác đối với TCPH trong quy định của Việt Nam về CW. Đơn cử, pháp luật Đài Loan rất quan tâm đến vấn đề tuân thủ, chấp hành pháp luật và các quy chế vận hành thị trường của TCPH.
Với những tổ chức không chấp hành quy định pháp luật, quy chế của thị trường mang tính nghiêm trọng trong một khoảng thời gian nhất định trước thời điểm đăng ký phát hành đều xem như không đủ tiêu chuẩn.
Quy định này nhằm hướng đến ý thức chấp hành pháp luật và tính nghiêm túc trong việc tuân thủ “luật chơi” trên thị trường của TCPH. Theo chúng tôi, đây là một yếu tố quan trọng buộc phải xem xét trước khi công nhận tư cách TCPH CW.
Hơn nữa, quy định về quy mô vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ tối thiểu 1.000 tỷ đồng hiện nay theo pháp luật Việt Nam cũng chưa thực sự rõ ràng và hợp lý. Cụ thể là, với quy định này, có thể xuất hiện hai cách hiểu: một là, tổng vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu phải đạt tối thiểu 1.000 tỷ đồng; hai là vốn điều lệ lẫn vốn chủ sở hữu đều phải đạt tối thiểu 1.000 tỷ đồng.
Chúng tôi cho rằng pháp luật Đài Loan có quy định rõ ràng và hợp lý hơn khi xét tiêu chuẩn về giá trị tài sản ròng chứ không đơn thuần chỉ xét quy mô vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu. Vì giữa ba chỉ số này, giá trị tài sản ròng mới là chỉ số thực chất chứng minh tiềm lực tài chính lành mạnh của TCPH.
Đồng thời, pháp luật Việt Nam cũng chưa đề cập đến những quy định liên quan đến việc xử lý những trường hợp sau khi đã phát hành CW, TCPH không còn đáp ứng những tiêu chuẩn đối với một TCPH CW.
Chính vì vậy, để đảm bảo thị trường CW được vận hành một cách an toàn và phát triển lâu dài, chúng tôi cho rằng các cơ quan quản lý thị trường cần phải có lộ trình bổ sung, cải tiến, sửa đổi các quy định về TCPH theo hướng nâng cao tiêu chuẩn và thực chất hơn. Đồng thời, bổ sung các quy định xử lý các trường hợp TCPH không đáp ứng các tiêu chuẩn của TCPH CW sau khi đã phát hành CW.
Quy định về tài sản cơ sở
Pháp luật Đài Loan quy định khá chặt chẽ đối với tài sản cơ sở cả về giá trị thị trường, tính thanh khoản và hoạt động kinh doanh của TCPH tài sản cơ sở… Cụ thể, cổ phiếu muốn trở thành cổ phiếu cơ sở của CW cần đảm bảo: (i) Giá trị vốn hóa thị trường của cổ phiếu phải từ 10 tỷ TWD trở lên (500 triệu USD trở lên đối với cổ phiếu nước ngoài); (ii) Số lượng cổ phiếu được giao dịch trong 03 tháng gần nhất chiếm ít nhất 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành, hoặc khối lượng cổ phiếu giao dịch bình quân hàng tháng trong 03 tháng gần nhất đạt 100 triệu cổ phiếu trở lên; và (iii) Không có các khoản lỗ và lỗ lũy kế theo BCTC gần nhất được xác nhận hoặc kiểm toán bởi một tổ chức kiểm toán được cấp phép3.
Ngoài những điều kiện trên, Đài Loan còn nhiều quy định về hạn mức đối với các cổ phiếu dùng làm tài sản cơ sở nhằm kiểm soát rủi ro. Theo đó, tổng số cổ phiếu làm tài sản cơ sở cho tất cả CW được niêm yết không được vượt quá 22% (hoặc 30% đối với đợt phát hành bổ sung) số cổ phiếu tự do chuyển nhượng.
Một quy định khác nữa là khi tài sản cơ sở của lệnh phát hành là cổ phiếu trong nước thì tổ chức phát hành hoặc giám đốc, người giám sát, người quản lý, nhân viên hoặc cổ đông nắm giữ 10% cổ phần của TCPH không được đồng thời là giám đốc, người giám sát, người quản lý hoặc cổ đông có cổ phần từ 10% trở lên trong công ty phát hành cổ phiếu cơ sở. Quy định này nhằm hạn chế việc sử dụng thông tin nội bộ để kiếm lợi từ CW, gây thiệt hại cho những nhà đầu tư thông thường khác.
Tại Việt Nam, trong giai đoạn đầu triển khai CW, cổ phiếu được chọn là tài sản cơ sở duy nhất để phát hành CW. Về cơ bản, quy định về tài sản cơ sở theo pháp luật Đài Loan và Việt Nam đều tập trung vào những yếu tố sau đây: (i) giá trị vốn hóa thị trường của tài sản cơ sở; (ii) tính thanh khoản của tài sản cơ sở (thể hiện thông qua số lượng, khối lượng hoặc tỷ lệ giao dịch trên thị trường); (iii) hiệu quả hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành; và (iv) tỷ lệ tối đa của lượng tài sản cơ sở để phát hành CW và lượng tài sản đang lưu thông trên thị trường.
Cụ thể, theo Điều 3 của Quy chế hướng dẫn chào bán và phòng ngừa rủi ro CW (Ban hành kèm theo Quyết định số 72/QĐ-UBCK ngày 18/01/2018 của Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước - UBCKNN) thì điều kiện của chứng khoán cơ sở của CW là cổ phiếu niêm yết đáp ứng được các điều kiện sau: (i) Thuộc chỉ số VN30 hoặc HNX30 hoặc chỉ số tương đương thay thế; (ii) Giá trị vốn hóa hàng ngày bình quân trong 6 tháng gần nhất từ 5.000 tỷ đồng trở lên; (iii) Tổng khối lượng giao dịch trong 6 tháng gần nhất tối thiểu đạt 25% số lượng cổ phiếu tự do chuyển nhượng bình quân trong 6 tháng gần nhất; (iv) Tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng tại ngày chốt dữ liệu xem xét từ 20% trở lên; có thời gian niêm yết từ 6 tháng trở lên tính đến thời điểm xem xét; (v) Kết quả hoạt động kinh doanh của TCPH chứng khoán cơ sở có lãi tại kỳ xem xét và không có lỗ lũy kế căn cứ trên BCTC gần thời điểm xem xét nhất; và (vi) Không đang trong tình trạng bị cảnh báo, kiểm soát, kiểm soát đặc biệt, tạm ngừng giao dịch, không trong diện hủy niêm yết theo quy chế của SGDCK.
Ngoài ra, điều 4 của Quy chế hướng dẫn chào bán và phòng ngừa rủi ro CW cũng quy định rằng số lượng cổ phiếu quy đổi từ các CW đã phát hành của tất cả TCPH không vượt quá 10% so với tổng số cổ phiếu tự do chuyển nhượng.
Chúng tôi cho rằng, những quy định về tài sản cơ sở của CW tại Việt Nam tương đối chặt chẽ và phù hợp với tình hình thực tế tại TTCK Việt Nam. Quy định này đảm bảo được chất lượng của CW cũng như hạn chế khả năng thao túng thị trường đối với cổ phiếu niêm yết được lựa chọn là tài sản cơ sở của CW.
3. Một số quy định và cơ chế bổ trợ cho việc vận hành thị trường CW
Ngoài những quy định chặt chẽ về TCPH cũng như về tài sản cơ sở cho việc phát hành CW, Đài Loan còn có rất nhiều những quy định tiến bộ khác mà Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác có thể tham khảo và áp dụng.
Quy định về xếp hạng tổ chức phát hành
Đài Loan đã ban hành quy tắc xếp hạng này nhằm đánh giá các TCPH dựa trên 2 chỉ số là chỉ số về tỷ lệ doanh thu và chỉ số về chất lượng của thị trường. Vào ngày làm việc cuối cùng của mỗi quý, TWSE sẽ tính điểm và tiến hành xếp hạng cho các TCPH theo 5 mức là A, B, C, D và E.
Song song với việc xếp hạng là việc cung cấp những ưu đãi cho những nhà phát hành thuộc hạng A, B và có những hạn chế cho nhà phát hành các hạng dưới. Đơn cử như nhà phát hành hạng A, B được tăng hạn mức phát hành và giảm chi phí niêm yết; nhà phát hành hạng E sẽ bị hạn chế phát hành trong 01 năm.
Hiện tại, Việt Nam cũng đã tiến hành xếp loại CTCK theo Quy chế hướng dẫn xếp loại CTCK ban hành kèm theo Quyết định số 617/QĐ-UBCK ngày 09/10/2013 của Chủ tịch UBCKNN. Tuy vậy, việc sử dụng kết quả xếp loại này trong việc vận hành thị trường CW vẫn còn bỏ ngỏ.
Vì vậy, theo chúng tôi, Việt Nam cần có cơ chế khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy hiệu quả trên thị trường CW. Cơ quan quản lý thị trường nên xem xét bổ sung quy định về việc sử dụng kết quả xếp hạng TCPH vào việc xét duyệt tư cách TCPH, điều chỉnh hạn mức phát hành hoặc cung cấp những ưu đãi trong quá trình quản lý phát hành CW.
Quy định này không những giúp khuyến khích thị trường này phát triển, mà còn giúp cơ quan quản lý đánh giá được khả năng của các TCPH, lưu ý hơn với các trường hợp thiếu khả năng thực hiện các chức năng phòng ngừa rủi ro và tạo lập thị trường.
Quy định về giao dịch CW trong những trường hợp đặc biệt
Đài Loan có riêng một quy chế hướng dẫn xử lý giao dịch và thực hiện CW trong các trường hợp đặc biệt như: thiên tai, thảm họa, bầu cử hoặc ngày lễ của quốc gia.
Theo hướng dẫn này, trong trường hợp xảy ra sự kiện như thiên tai, thảm họa thiên nhiên hoặc bầu cử mà TTCK tập trung vẫn mở cửa thì hướng dẫn này sẽ áp dụng cho các yêu cầu thực hiện CW, các giao dịch thanh toán của nhà đầu tư thực hiện tại các khu vực mà chính quyền địa phương đóng cửa, cụ thể:
(i) Tại các khu vực mà chính quyền địa phương đóng cửa, nếu một CTCK quyết định tạm dừng hoạt động kinh doanh, nhà đầu tư sẽ không thể thực hiện CW vào các ngày đó cho đến khi CTCK tiếp tục kinh doanh;
(ii) Các yêu cầu thực hiện CW được đưa ra trong vòng 2 ngày làm việc trước ngày diễn ra thảm họa thiên nhiên (hoặc bầu cử), lẽ ra đã phải được xử lý bởi các CTCK nơi chính quyền địa phương đóng cửa, sẽ được TWSE hoãn lại cho đến ngày CTCK đó đi vào làm việc trở lại và sẽ được giải quyết cùng với các yêu cầu thực hiện CW được đưa ra vào ngày trước ngày xảy ra thảm họa thiên nhiên (hoặc bầu cử);
(iii) Các CTCK tại các khu vực mà chính quyền địa phương đóng cửa quyết định mở cửa kinh doanh trở lại như thường lệ sẽ thực hiện các yêu cầu thực hiện CW của nhà đầu tư trong thời gian xảy ra thảm họa thiên nhiên (hoặc bầu cử) với TWSE vào ngày làm việc thứ hai sau khi doanh nghiệp trở lại hoạt động;
(iv) Trường hợp ngày đáo hạn rơi vào ngày xảy ra thảm họa thiên nhiên (hoặc bầu cử), nhà đầu tư tại khu vực mà chính quyền địa phương đóng cửa có thể yêu cầu thực hiện CW vào ngày hoạt động kinh doanh hoạt động trở lại hoặc một khoảng thời gian tương ứng tính từ ngày các CTCK hoạt động trở lại.
Đối với trường hợp xảy ra sự kiện như thảm họa thiên nhiên, bầu cử hoặc ngày nghỉ lễ quốc gia mà TTCK tập trung phải đóng cửa thì hướng dẫn này nêu rõ rằng: (i) Theo quy tắc của TWSE, ngày giao dịch CW cuối cùng là 02 ngày trước ngày đáo hạn, tuy nhiên, ngày đáo hạn của CW sẽ được trì hoãn trong trường hợp thảm họa thiên nhiên (hoặc bầu cử) xảy ra và kéo dài trong khoảng thời gian 03 ngày kể từ ngày giao dịch cuối cùng đến ngày đáo hạn của CW khiến TTCK tập trung đóng cửa; và (ii) trong trường hợp ngày đáo hạn của CW rơi vào ngày nghỉ lễ quốc gia, việc xử lý yêu cầu thực hiện CW sẽ được hoãn lại vào ngày làm việc tiếp theo.
Tại Việt Nam, pháp luật cũng đã đề cập đến trường hợp này nhưng chưa quy định hay hướng dẫn xử lý một cách cụ thể. Theo đó, khoản 6, điều 9 Thông tư 107/2016/TT-BTC ngày 29/6/2016 của Bộ Tài chính về hướng dẫn chào bán và giao dịch CW chỉ quy định rằng trong trường hợp sự cố bất khả kháng do thiên tai, hỏa hoạn, sự cố kỹ thuật tại hệ thống giao dịch, hệ thống thanh toán thì CW bị tạm ngừng giao dịch nhưng chưa đưa ra hướng dẫn xử lý giao dịch sau đó.
Chúng tôi cho rằng pháp luật Việt Nam cần có những quy định cụ thể hơn để dự liệu được những tình huống bất thường xảy ra đối với thị trường. Có thể kể đến những sự kiện bất khả kháng về thiên tại, hỏa hoạn, thay đổi chính sách... theo cách mà Đài Loan đã làm.
Cụ thể hơn, đối với các sự kiện như thiên tai, hỏa hoạn, sự thay đổi chính sách (sau đây gọi chung là sự kiện bất khả kháng) khiến cho một số CTCK phát hành CW phải tạm dừng hoạt động (phải có thông báo, thông tin đến thị trường) mà TTCK tập trung vẫn mở cửa thì: (i) đối với các yêu cầu thực hiện CW được đưa ra trong những ngày trước khi sự kiện bất khả kháng xảy ra và chưa được giải quyết sẽ được giải quyết ngay trong ngày đầu tiên CTCK đó hoạt động trở lại; (ii) mọi yêu cầu thực hiện CW đực đưa ra trong khoảng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng sẽ được giải quyết trong ngày làm việc thứ 02 kể từ ngày CTCK đó hoạt động trở lại.
Trường hợp ngày đáo hạn của CW rơi vào ngày lễ của quốc gia thì việc thực hiện CW sẽ được thực hiện vào ngày làm việc tiếp theo. Những hướng dẫn này cũng cần được xây dựng chi tiết hơn nữa về các trường hợp được xem là bất khả kháng, cách xác định giá giao dịch đối với từng trường hợp, thủ tục thông báo thông tin... Đồng thời, những quy định này cần được tổng hợp lại thành một văn bản hướng dẫn trong một hệ thống văn bản tập trung.
Cơ chế phổ biến CW
Ở thị trường Đài Loan, trong giai đoạn đầu vận hành thị trường CW, số người có kiến thức đầy đủ về CW rất ít. Điều này có thể dẫn đến nhiều hậu quả như việc thua lỗ liên tiếp dẫn đến rút khỏi thị trường hay tranh chấp trong khi giao dịch... Để giải quyết vấn đề này, Đài Loan đã triển khai mô hình quỹ chuyên dành cho mục đích đào tạo, giới thiệu về CW.
Các CTCK tại Đài Loan, khi phát hành một mã CW sẽ trích một khoản tiền để góp vào quỹ chung dùng để hỗ trợ một bên thứ ba độc lập (ở Đài Loan là Hiệp hội CW Đài Loan) thực hiện công tác đào tạo nhà đầu tư, việc này giúp giảm thiểu chi phí so với các TCPH tự thực hiện đào tạo riêng lẻ.
Từ nguồn thu của quỹ, Hiệp hội CW Đài Loan tổ chức những chương trình đào tạo cho nhà đầu tư có nhu cầu tìm hiểu và đầu tư. Để đảm bảo tính trung thực, quỹ có ban quản lý là đại diện của các CTCK thành viên để giám sát việc sử dụng tiền và đảm bảo tính công bằng. Ngoài đầu tư cho đào tạo, công tác truyền thông cũng là một trong những chiến lược quan trọng tạo nên sự thành công của thị trường CW tại Đài Loan.
Vấn đề này cũng được một số quốc gia áp dụng rất nghiêm ngặt, đơn cử như tại Hàn Quốc, kể từ ngày 01/6/2011, các nhà đầu tư tiềm năng muốn tham gia vào thị trường CW (ở Hàn Quốc được gọi với tên gọi là Equity-linked Warrant hay ELW) phải tham gia khóa đào tạo kéo dài 01 giờ về CW, nội dung đào tạo có sẵn trực tuyến và nhận được giấy chứng nhận hoàn thành khóa đào tạo trước khi họ có thể mua CW. Lớp đào tạo này là bắt buộc và chỉ áp dụng cho CW.
Đồng thời, công tác pháp điển hóa các quy định pháp lý về CW được thực hiện rất tốt và hiệu quả. Theo đó, các cơ quan quản thị trường của Đài Loan đã tổng hợp tất cả những quy định liên quan đến CW này thành những văn bản chuyên biệt trên trang Web của TWSE. Theo đó, các thành viên tham gia thị trường dễ dàng truy cập đến tất cả các văn bản pháp luật và các hướng dẫn liên quan đến CW.
Theo đánh giá của chúng tôi, công tác phổ biến kiến thức về CW đến các chủ thể có liên quan trên thị trường tại Việt Nam hiện nay chưa thật sự hiệu quả nếu xét trên diện rộng. Việt Nam hiện còn thiếu vắng những cơ chế mang tính hệ thống trong việc phổ biến các quy định và kiến thức có liên quan về chứng khoán nói chung và CW nói riêng.
Việc tiếp cận các quy định pháp luật có liên quan đến CW cũng hoàn toàn không dễ dàng đối với một nhà đầu tư cá nhân, thậm chí với người không có chuyên môn về luật vì tính phân tán của các quy định và sự kém hiệu quả trong công tác pháp điển hóa.
Chúng tôi cho rằng, để đẩy mạnh công tác đào tạo và quảng bá sản phẩm CW, các cơ quan quản lý thị trường cần tiến hành pháp điển hóa các quy định pháp luật có liên quan đến CW và đăng tải tập trung tại website. Sau đó, giới thiệu đến các đối tượng có liên quan.
Bên cạnh đó, chúng ta hoàn toàn có thể tham khảo thị trường Đài Loan trong việc lập ra một quỹ chuyên dùng do các TCPH CW cùng nhau đóng góp để phục vụ công tác đào tạo về lĩnh vực này. Điều này nhằm tạo sự thuận tiện cho việc tiếp cận và tuân thủ của các thành viên tham gia thị trường, đặc biệt là với những nhà đầu tư cá nhân.