Phát triển lĩnh vực kế toán Việt Nam trong giai đoạn mới
Sau hơn 25 năm đổi mới và cải cách, lĩnh vực kế toán của Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng, đóng góp có hiệu quả vào thành công chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, với sự bùng nổ của các thành tựu công nghệ số nói chung và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nói riêng đòi hỏi lĩnh vực kế toán cần tiếp tục có những thay đổi để phù hợp với bối cảnh mới.
Bài viết trao đổi về những kết quả tích cực của lĩnh vực kế toán trong giai đoạn vừa qua, đồng thời đưa ra một số kiến nghị góp phần định hướng sự phát triển của lĩnh vực này trong giai đoạn tới.
Kết quả nổi bật trong phát triển lĩnh vực kế toán
Sau hơn 25 năm đổi mới và cải cách lĩnh vực kế toán, đặc biệt sau hơn 7 năm thực hiện Chiến lược phát triển kế toán, kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được ban hành kèm theo Quyết định số 480/QĐ-TTg ngày 18/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ, lĩnh vực kế toán đã có những bước tiến vượt bậc, góp phần nâng cao hiệu quả, minh bạch hóa nền kinh tế.
Theo đó, vai trò và năng lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kế toán từng bước được nâng cao. Bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về kế toán được củng cố, tạo nền tảng quan trọng để thực hiện chức năng quản lý giám sát hoạt động kế toán trong bối cảnh công nghệ số đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kế toán. Đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về kế toán cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, không chỉ có kiến thức sâu về chuyên môn, mà còn có kiến thức về công nghệ thông tin. Công tác quản lý, giám sát hoạt động kế toán tiếp tục được đẩy mạnh; việc kiểm tra, giám sát tuân thủ pháp luật về kế toán được thực hiện với các giải pháp phù hợp, hiệu quả, công khai, minh bạch.
Việt Nam đã tạo lập một hệ thống kế toán tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với cơ chế quản lý của Nhà nước, tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu thông tin cho việc huy động, hỗ trợ, quản lý và điều hành các nguồn lực tài chính và các hoạt động kinh tế - tài chính của Chính phủ, địa phương và từng doanh nghiệp (DN), tổ chức, đơn vị kế toán. Để hỗ trợ cộng đồng DN có điều kiện thuận lợi trong kinh doanh và đầu tư, Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, giúp công tác kế toán của các loại hình DN được thực hiện dễ dàng, minh bạch như: Luật Kế toán, Nghị định hướng dẫn Luật Kế toán; Các thông tư hướng dẫn chế độ kế toán chung đối với DN (Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014), chế độ kế toán đối với DN nhỏ và vừa, chế độ kế toán đối với DN siêu nhỏ… Việt Nam đã xây dựng và công bố hệ thống chuẩn mực kế toán trong lĩnh vực DN.
Hiện nay, Việt Nam đang có kế hoạch triển khai áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế. Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu xây dựng các quy định trong lĩnh vực kế toán công theo hướng hòa nhập với các thông lệ quốc tế, tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, hiện nay vẫn còn khoảng cách nhất định với thông lệ quốc tế về việc ghi nhận và trình bày các thông tin về thu chi ngân sách nhà nước, kế toán các quỹ tài chính, kế toán thuế và kế toán tại các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Trước xu thế mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã từng bước phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán theo tất cả các tiêu chí, cả về chất lượng và quy mô, thu hút sự quan tâm của các đối tác nước ngoài, qua đó nâng cao tính công khai, minh bạch của các hoạt động kinh tế, tài chính của tất cả các đơn vị, tổ chức trong nền kinh tế - xã hội. Đến nay, quy mô và số lượng của các DN kế toán tăng lên đáng kể. Thống kê của Bộ Tài chính trong giai đoạn 2017-2019 cho thấy, số lượng DN đủ điều kiện cung cấp dịch vụ kế toán năm 2017 là 40, năm 2018 là 78 và năm 2019 là 118. Số lượng người được cấp giấy chứng nhận hành nghề kế toán: năm 2017 là 230, năm 2018 là 242 và năm 2019 là 322.
Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đã chủ động mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các tổ chức về kế toán với các hoạt động đa dạng, phong phú. Đặc biệt, vị thế của kế toán Việt Nam ngày càng được khẳng định khi Hiệp định khung về thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực kế toán đã được ký kết giữa 10 nước ASEAN tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 10 diễn ra vào tháng 8/2011. Việt Nam đã tham gia ký kết các thỏa thuận quốc tế với các nước khác trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương…
Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh kết quả đạt được, quá trình phát triển lĩnh vực kế toán nói chung và triển khai Chiến lược kế toán, kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 nói riêng đặt ra khá nhiều, thách thức, đòi hỏi lĩnh vực kế toán cần quan tâm giải quyết gồm:
- Về khuôn khổ pháp lý: Cơ bản, hệ thống khuôn khổ pháp lý đối với lĩnh vực kế toán khá đầy đủ và hoàn thiện. Tuy nhiên, khuôn khổ pháp lý của kế toán công vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Trong lĩnh vực kế toán công, cho đến nay mới chỉ xây dựng và ban hành các chế độ kế toán hướng dẫn công tác kế toán tại các đơn vị kế toán cụ thể thuộc lĩnh vực kế toán nhà nước. Các quy định được đặt ra trong các chế độ kế toán này phần lớn là các quy định hướng dẫn công tác kế toán và tổ chức bộ máy kế toán, chưa có những quy định mang tính nguyên tắc, thống nhất một cách đầy đủ, đồng bộ phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang nghiên cứu để xây dựng Hệ thống chuẩn mực kế toán công nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Thống kê trong giai đoạn 2017-2019 cho thấy, số lượng doanh nghiệp đủ điều kiện cung cấp dịch vụ kế toán năm 2017 là 40, năm 2018 là 78 và năm 2019 là 118. Số lượng người được cấp giấy chứng nhận hành nghề kế toán: năm 2017 là 230, năm 2018 là 242 và năm 2019 là 322.
- Về công tác quản lý nhà nước: Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực kế toán đối diện với nhiều khó khăn, thách thức trước xu thế phát triển của các mô hình kinh doanh mới, các công nghệ mới làm thay đổi quy trình kế toán. Trong khi đó, cơ chế, nội dung, hình thức giám sát thực thi việc tuân thủ chuẩn mực kế toán, kiểm toán chưa thực hiện đầy đủ và hiệu quả.
- Về mức độ phát triển của thị trường kế toán: Quy mô thị trường dịch vụ kế toán còn nhỏ, chưa tạo được lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia trong khu vực. Chất lượng các dịch vụ kế toán chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, cần tiếp tục được cải thiện để đáp ứng nhu cầu của xã hội, của nền kinh tế.
- Về chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý kế toán và nguồn nhân lực kế toán DN: Đội ngũ cán bộ làm công tác trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán tại các đơn vị đã được nâng lên về trình độ chuyên môn, thông qua việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật về chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, số lượng kế toán viên, đặc biệt người có năng lực, kinh nghiệm hành nghề tại một số vị trí công việc còn hạn chế. Nguồn nhân lực và điều kiện hoạt động của các hội nghề nghiệp, trong các DN còn có những hạn chế nhất định, tác động đến hiệu quả hoạt động chuyên môn…
- Về chuẩn mực kế toán: Mặc dù, đã tiếp cận gần với thông lệ quốc tế, tuy nhiên về lĩnh vực sản xuất kinh doanh, chuẩn mực kế toán DN Việt Nam nói chung và báo cáo tài chính nói riêng chưa được cập nhật theo thông lệ quốc tế, làm hạn chế hiệu quả quản lý, giảm tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư và hội nhập quốc tế. Cụ thể, Chuẩn mực Kế toán Việt Nam - VAS (gồm 26 chuẩn mực) mặc dù đã được xây dựng theo các chuẩn mực kế toán quốc tế - IAS và phù hợp với đặc điểm nền kinh tế, cũng như tình hình DN Việt Nam, tuy nhiên, giữa VAS và IAS/IFRS (chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế) hiện nay vẫn còn một khoảng cách đáng kể, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hội nhập của kế toán, kiểm toán Việt Nam. Sự khác biệt lớn nhất giữa 2 hệ thống này được biểu hiện ở nhiều khoản mục trên báo cáo tài chính lập theo IFRS. Điều này làm cho giá trị tài sản và nợ phải trả của DN chưa phản ánh đúng như diễn biến thực tế của thị trường…
- Về mức độ ứng dụng công nghệ thông tin: Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kế toán tuy đã đạt những kết quả ban đầu, song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Tại các DN, phần mềm kế toán đã được sử dụng nhưng chưa nhiều và chưa chuyên nghiệp. Tại các cơ quan công quyền, hệ thống phần mềm kế toán vẫn gây không ít khó khăn cho người dùng.
- Về hoạt động đào tạo kế toán: Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao tuy đã được quan tâm nhưng kết quả còn khiêm tốn. Sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa đáp ứng được yêu cầu công việc của DN, các DN vẫn thường phải mất thời gian, chi phí đào tạo lại. Hoạt động đào tạo tại các trường đại học tuy gia tăng về quy mô nhưng nội dung giảng dạy, chất lượng giảng dạy và đội ngũ giảng dạy còn nhiều hạn chế, áp dụng chưa hiệu quả thành tựu của khoa học công nghệ vào công tác giảng dạy...
- Về hoạt động hội nhập quốc tế: Một số hoạt động hội nhập quốc tế về kế toán, kiểm toán chưa thực sự đi vào chiều sâu. Các sản phẩm dịch vụ cung cấp ra ngoài biên giới chưa phát triển tương xứng nếu so sánh với chiều ngược lại…
Giải pháp phát triển kế toán trong giai đoạn mới
Để khắc phục những hạn chế trên, Việt Nam cần xác định các mục tiêu cụ thể để xây dựng các giải pháp cho giai đoạn mới sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện, đồng bộ hệ thống pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kế toán để cung cấp kịp thời các thông tin về kinh tế, tài chính, ngân sách, phục vụ cho việc điều hành và ra quyết định kinh tế của Nhà nước, cũng như của mỗi DN, tổ chức, cá nhân. Theo đó, cần nghiên cứu xây dựng Luật Kế toán viên công chứng theo hướng tiếp cận tối đa thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Tập trung triển khai Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam theo lộ trình do Bộ Tài chính xác định đối với một số DN có nhu cầu và đủ điều kiện áp dụng; xây dựng chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện Việt Nam, thay thế cho 26 chuẩn mực hiện nay...
Hai là, đổi mới và thực hiện hiệu quả công tác quản lý, giám sát hoạt động kế toán. Theo đó, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát hoạt động kế toán, đặc biệt là hoạt động dịch vụ kế toán; tăng cường kiểm tra, giám sát và có chế tài phù hợp, đảm bảo việc thực thi pháp luật của DN, đơn vị kế toán cũng như các DN cung cấp dịch vụ kế toán. Bên cạnh đó, chuẩn hóa các quy định về kiểm tra, giám sát chất lượng đối với dịch vụ kế toán; quy định các chế tài xử lý vi phạm, xử lý vi phạm hành chính, đảm bảo tính răn đe, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan. Cụ thể hóa trách nhiệm, nghĩa vụ của DN, đơn vị kế toán trong việc tăng cường tính công khai, minh bạch, tình hình tài chính, đảm bảo quyền bình đẳng trong tiếp cận thông tin của nhà đầu tư và các bên liên quan đối với báo cáo và các thông tin tài chính khác.
Vị thế của kế toán Việt Nam ngày càng được khẳng định khi Hiệp định khung về thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực kế toán đã được ký kết giữa 10 nước ASEAN tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 10 diễn ra vào tháng 8/2011. Việt Nam đã tham gia ký kết các thỏa thuận quốc tế với các nước khác trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương…
Đồng thời, tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định pháp luật và các chuẩn mực chuyên môn nghiệp vụ của các DN, đơn vị kế toán… Thực hiện giám sát việc tuân thủ các quy định pháp lý về kế toán, kiểm toán của các đơn vị kế toán trong khu vực công và khu vực tư. Quan tâm đến cơ chế giám sát việc tuân thủ chuẩn mực kế toán của các công ty niêm yết và các công ty có lợi ích công chúng khác.
Ba là, thúc đẩy sự phát triển của thị trường dịch vụ kế toán. Theo đó, tập trung phát triển mạnh thị trường dịch vụ kế toán cả về quy mô, số lượng DN, cũng như đội ngũ chuyên gia kế toán, kiểm toán để cung cấp dịch vụ kế toán chất lượng cao. Mở rộng quy mô số lượng và chất lượng các DN, cung cấp dịch vụ kế toán thông qua hoàn thiện cơ chế và điều kiện hành nghề. Cùng với việc mở rộng thị trường dịch vụ, tạo ra nhu cầu cao hơn đối với thị trường kế toán, tăng cường năng lực của các DN cung cấp dịch vụ kế toán. Tiếp tục rà soát, cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các DN kế toán và người hành nghề kế toán.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực về kế toán, nâng cao năng lực đội ngũ hành nghề kế toán trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tăng cường năng lực hoạt động và phát huy vai trò của các tổ chức nghề nghiệp trong việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kiểm tra, giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ hành nghề kế toán, kiểm toán. Thu hút nhân sự có chất lượng cao để thực hiện tốt và có hiệu quả nhiệm vụ quản lý, giám sát về kế toán; phối hợp với đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm về hành nghề kế toán. Nâng cao ý thức, kỷ luật và trình độ chuyên môn cho nhân viên của các DN dịch vụ kế toán thông qua hoạt động đào tạo, cập nhật kiến thức, các chương trình đào tạo chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế nhằm tiếp cận kiến thức và kỹ năng hành nghề theo thông lệ quốc tế… Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực kế toán tại tất cả các khâu; Đổi mới quy định về cập nhật kiến thức cho kế toán viên. Đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng kế toán trưởng; xây dựng chương trình cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ hàng năm cho kế toán trưởng của các đơn vị có lợi ích công chúng.
Năm là, nâng cao hiệu quả cải cách hành chính và sử dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kế toán, phục vụ quản lý, giám sát hoạt động kế toán. Theo đó, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong hoạt động kế toán; Xây dựng hệ thống dữ liệu để quản lý và giám sát việc hành nghề kế toán, kết nối thông tin giữa các cơ quan quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán thị trường chứng khoán; đảm bảo việc công bố thông tin minh bạch, kịp thời cho thị trường về đội ngũ các DN kế toán, kiểm toán, cũng như các kế toán viên, kiểm toán viên hành nghề...
Sáu là, chú trọng phát triển các hội nghề nghiệp. Theo đó, tạo lập cơ sở pháp lý cho việc hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp, thực hiện bồi dưỡng, nâng cao năng lực cũng như quản lý, giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của các kế toán viên, kiểm toán viên. Xây dựng mô hình tổ chức nghề nghiệp chuyên nghiệp theo thông lệ tốt nhất nhằm thực hiện chức năng kiểm tra chất lượng dịch vụ và bồi dưỡng nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kế toán…
Bảy là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực trong lĩnh vực kế toán. Theo đó, tăng cường hội nhập quốc tế, tạo dựng mối liên hệ chặt chẽ, thừa nhận lẫn nhau giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực, trên thế giới và các tổ chức quốc tế; tham gia với tư cách là thành viên chính thức của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế; tham gia chủ động vào quá trình xây dựng các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế, chuẩn mực kế toán công quốc tế thông qua các diễn đàn trong khu vực và trên thế giới. Tăng cường mối quan hệ và tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế về kế toán và các tổ chức phi chính phủ trong việc nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm và hỗ trợ các dự án đổi mới mô hình quản lý nghề nghiệp kế toán, cũng như các kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, nghiên cứu các mô hình quản lý kế toán của các nước phát triển để vận dụng vào Việt Nam về xây dựng kỹ thuật nghiệp vụ kế toán; phát triển dịch vụ kế toán; mô hình đào tạo, thi, cấp chứng chỉ hành nghề kế toán. Tiếp tục hỗ trợ tổ chức nghề nghiệp thực hiện đầy đủ vai trò thành viên của các tổ chức Liên đoàn Kế toán quốc tế; Hiệp hội Kế toán ASEAN và thành viên Hiệp hội Kế toán châu Á - Thái Bình Dương...
Tài liệu tham khảo:
Quốc hội (2015), Luật Kế toán sửa đổi;
Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 480/QĐ-TTg ngày 18/3/2013 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển kế toán, kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
Chính phủ (2016), Nghị định số 174/2016/NĐ-CP ngày 30/12/2016 quy định một số điều của Luật Kế toán;
Bộ Tài chính (2020), Đề án công bố hệ thống chuẩn mực kế toán công của Việt Nam;
Vũ Đức Chính (2020), Triển khai chiến lược kế toán, kiểm toán Việt Nam: Kết quả và định hướng đến năm 2030, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 4/2020;
Mai Ngọc Anh (2020), Phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán: Những vấn đề đặt ra, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 4/2020;
Đỗ Tất Cường (2020), Dự báo những xu hướng thay đổi trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 4/2020;
Nguyễn Phan Hoàng Chánh, Lê Đức Thắng (2019), Phát triển ngành Kế toán, Kiểm toán Việt Nam thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 8/2019;
Một số website: mof.gov.vn, sav.gov.vn, vaa.net.vn, vacpa.org.vn…