Phát triển nguồn nhân lực giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên số
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, tác động tới mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Thực tế này đòi hỏi nguồn nhân lực giáo dục Việt Nam phải có sự thay đổi căn bản về tầm nhìn, nội dung cũng như cách tiếp cận trước sự đổi mới không ngừng của xã hội. Bài viết nhận diện những thách thức đặt ra đối với nền giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên số, đề xuất một số giải pháp, nhằm phát triển nguồn nhân lực giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên số.
Ngoài những tác động đa chiều, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) còn làm thay đổi nhanh chóng cơ cấu lao động và thị trường lao động. Các hệ thống tự động hóa sẽ thay thế dần lao động thủ công trong toàn bộ nền kinh tế, máy móc và trí tuệ nhân tạo thay thế sức người, nhu cầu sử dụng nhân lực trình độ cao tăng lên trong khi nhu cầu sử dụng lao động kỹ năng thấp ngày càng giảm. Điều này sẽ tạo áp lực lớn đối với thị trường lao động nhất là các quốc gia đang phát triển sẽ phải đối mặt với tình trạng dư thừa lao động, gia tăng thất nghiệp.
Theo dự báo, "trong một số lĩnh vực, với sự xuất hiện của robot, số lượng nhân viên sẽ giảm đi còn 1/10 so với hiện nay, theo đó, 9/10 nhân lực còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Cuối năm 2015, Ngân hàng Anh quốc đã đưa ra dự báo, sẽ có khoảng 95 triệu lao động truyền thống bị mất việc trong vòng 10 - 20 năm tới; Hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi, thị trường lao động tại quốc gia này cũng như quốc tế sẽ phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có kỹ năng thấp và nhóm lao động có kỹ năng cao. Lao động giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh của các thị trường mới nổi ở khu vực Mỹ La-tinh và châu Á. Đặc biệt, cuộc CMCN 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động trình độ thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0.
Thách thức đặt ra đối với nguồn nhân lực giáo dục Việt Nam
Theo dự báo của các chuyên gia, dưới tác động của những đột phá về công nghệ từ cuộc CMCN 4.0, trong tương lai không xa, nhiều lao động trong các ngành, nghề của Việt Nam có thể sẽ thất nghiệp, trong đó bao gồm cả đội ngũ lao động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. CMCN 4.0 với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa, vật lý, sinh học với trung tâm. Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật, Robot, công nghệ Nano, công nghệ sinh học… đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới, tạo ra nhiều cơ hội rất lớn nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cho mỗi quốc gia. Xu thế này cũng tác động đến Việt Nam trên mọi lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục là một trong những đối tượng chịu sự tác động mạnh mẽ và trực tiếp từ cuộc cách mạng này.
Nhân tố quyết định việc vận dụng và phát triển khoa học và công nghệ 4.0 không phải là nguồn lực tài chính, hệ thống máy móc thiết bị, lại càng không phải điều kiện tự nhiên, lịch sử văn hóa mà là nguồn lực con người và thể chế. Theo đó, đầu tàu chính là nguồn nhân lực giáo dục, vừa giữ vai trò định hướng, vừa giữ vai trò động lực thúc đẩy xây dựng và phát triển khoa học công nghệ và công nghiệp quốc gia. Nếu nguồn nhân lực giáo dục không tích cực, chủ động, tận dụng và nắm bắt thì cơ hội sẽ vụt mất, sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu.
Thực tế đã chỉ ra, dù đã đóng góp vào sự phát triển của đất nước, nhưng trên bình diện chung, đội ngũ nhân lực giáo dục Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên số. Việt Nam đang thiếu hụt các nhà khoa học, chuyên gia trình độ cao, đội ngũ quản lý, nhà kinh doanh giỏi, công nhân lành nghề trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đã, đang tạo nên những thách thức không nhỏ đối với nguồn nhân lực giáo dục Việt Nam. Minh chứng là thị trường đào tạo ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt không chỉ giữa các trường với nhau mà còn có sự cạnh tranh với chính những đơn vị sử dụng lao động. Xu hướng "chảy máu chất xám" ngày càng diễn ra mạnh mẽ và gia tăng trong nền giáo dục hiện đại, nhất là khi sự phân hóa thị trường lao động diễn ra trên toàn cầu, sự cạnh tranh về nguồn lao động chất lượng cao diễn ra trên phạm vi xuyên quốc gia.
Sự thay đổi mang tính hiện đại của nền giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên số cũng đòi hỏi đội ngũ giảng viên, giáo viên phải thay đổi để bắt kịp xu thế, nếu không thay đổi sẽ bị tụt hậu và có nguy cơ thất nghiệp. Với kỷ nguyên số, người học sẽ thay đổi, sinh viên và học viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có quyền nhiều hơn trong chia sẻ thông tin cá nhân trên mạng xã hội, người học cảm nhận được cuộc sống nhanh hơn, liên tưởng nhanh hơn giữa kiến thức hàn lâm với thực tiễn cuộc sống. Không những thế, người học cũng dễ dàng truy cập vào kho dữ liệu khổng lồ, các thông tin được mở rộng, có cơ hội tương tác, kết nối không chỉ với giảng viên mà còn tương tác với các chuyên gia trong và ngoài nước, việc người học tiếp cận với các học giả nổi tiếng ngày càng dễ dàng hơn thông qua một cái nhấp chuột trên mạng xã hội.
Mặt khác, công tác quản lý nhà nước, quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển nguồn nhân lực của các ngành, nhất là nguồn nhân lực giáo dục hiện nay vẫn còn rời rạc, manh mún và thiếu đồng bộ. Công tác dự báo nhu cầu nguồn nhân lực dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội cũng hạn chế; cơ cấu đào tạo theo ngành, nghề, trình độ đào tạo không được quy hoạch lâu dài. Các cơ sở đào tạo không đủ thông tin về cung - cầu lao động nên việc xây dựng ngành, nghề, chỉ tiêu và trình độ đào tạo hàng năm không sát thực tế. Bên cạnh đó, việc sử dụng lao động chưa thực hiện theo nguyên tắc đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn. Trong khi đó, chế độ đãi ngộ lao động, nhất là lao động trình độ cao hiện nay cũng chưa tương xứng với tay nghề và sức sáng tạo của họ.
Tóm lại, trong kỷ nguyên số, mọi thứ sẽ thay đổi, kiến thức giáo dục trở nên vô tận, chính vì vậy, nhân lực giáo dục (gồm cả các giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục) thời công nghệ 4.0 phải không ngừng học hỏi, đổi mới để nâng cao, bổ sung kiến thức; Phải là người hướng dẫn, định hướng, trao đổi nhiều hơn với người học, theo dõi, giám sát cũng như chịu trách nhiệm về tiến bộ của người học, biết quan tâm nhu cầu thực sự của người học, biết tạo động lực và hỗ trợ người học đi tìm tri thức phù hợp cho bản thân.
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực giáo dục Việt Nam hiện nay
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) nhấn mạnh: "Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh thủ những cơ hội và thành tựu của cuộc CMCN 4.0". Đây là chủ trương đúng đắn, thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo và tư duy đột phá. Tuy nhiên, để thực hiện tốt nội dung này, đòi hỏi phải có một chiến lược tổng thể và lâu dài, với hệ thống các giải pháp mang tính đồng bộ, thiết thực, khả thi, trong đó có thể tập trung nghiên cứu và thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ mới. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần khắc phục căn bản thực trạng thiếu hụt về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay.
Xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một chủ trương lớn, một trong những nhiệm vụ quan trọng và phức tạp, do vậy, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng với một tư duy đột phá và tầm nhìn lâu dài, phù hợp với thực tiễn. Theo đó, chiến lược phải xác định rõ mục tiêu, quy mô, lộ trình và những cơ chế, chính sách tổng thể. Trong đó, mục tiêu chiến lược phải ưu tiên khắc phục mâu thuẫn giữa phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu; xác định quy mô, số lượng và cơ cấu của từng loại nhân lực cho phù hợp, nhất là nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo.
Mặt khác, cần làm tốt công tác tuyên truyền, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung và phương hướng xây dựng, phát triển nguồn nhân lực dưới tác động của cuộc CMCN 4.0. Cần xác định rõ đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của cả hệ thống chính trị, trong đó cần sớm thống nhất nhận thức trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, trước hết là lực lượng nòng cốt, đang trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu và hoạch định chiến lược, chính sách, tác động của thời cơ và thách thức đối với nước ta từ cuộc CMCN 4.0.
Thứ hai, tích cực đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực giáo dục đào tạo chất lượng cao: Hệ thống cơ chế, chính sách có vai trò rất quan trọng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, tạo động lực thúc đẩy hoặc lực cản kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nguồn nhân lực giáo dục đào tạo chất lượng cao nói riêng. Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho sự phát triển nguồn nhân lực giáo dục đào tạo chất lượng cao phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, như giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, an sinh xã hội, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, chính sách phát triển thị trường lao động, các điều kiện nhà ở, sinh sống, định cư...
Trong đó, trước hết cần coi trọng việc tạo lập các cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân tài. Việc đổi mới chính sách tuyển dụng, bố trí sử dụng nguồn nhân lực giáo dục đào tạo chất lượng cao cần được triển khai theo hướng công khai, công tâm, khách quan, chính xác, dựa trên cơ sở phẩm chất và năng lực thực chất. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo, quản lý cần mạnh dạn sử dụng nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao; lôi cuốn họ nỗ lực thực hiện những kiến thức, chuyên môn đã được tích lũy, được đào tạo thông qua những chính sách sử dụng hợp lý.
Mặt khác, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý từ Trung ương đến địa phương nhằm tạo môi trường thuận lợi phát triển nguồn nhân lực giáo dục đào tạo chất lượng, khuyến khích phát triển thị trường nguồn nhân lực giáo dục đào tạo chất lượng; thị trường và sản phẩm khoa học - công nghệ theo hướng hội nhập, xây dựng môi trường pháp lý cho phát triển các ngành, nghề kinh doanh mới ở Việt Nam đang bắt đầu nảy sinh từ cuộc CMCN 4.0.
Thứ ba, đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ giáo dục - đào tạo. Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp trọng yếu để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung, nguồn nhân lực giáo dục đào tạo nói riêng, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trước tác động của cuộc CMCN 4.0. Theo đó, cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, tổ chức, sắp xếp lại hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục đại học và dạy nghề. Khắc phục các bất hợp lý về quy mô đào tạo, cơ cấu trình độ ngành, nghề và cơ cấu vùng, miền; gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ.
Đồng thời, thực hiện tốt cơ chế, chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ; coi trọng đào tạo đại học và trên đại học, cao đẳng và dạy nghề theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế; Tạo chuyển biến nhanh và rõ nét trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế; Đẩy mạnh xã hội hóa, giao quyền tự chủ cho các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề công lập; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề.
Trên cơ sở khảo sát 142/271 trường đại học, hiện nay, trong hệ thống các trường đại học đã hình thành 945 nhóm nghiên cứu (một trường đại học có trung bình 7 nhóm nghiên cứu). Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước.Việc triển khai đào tạo chất lượng cao trình độ đại học không đồng đều, chủ yếu tập trung ở những trường đại học lớn.
Cần đổi mới chương trình, nội dung đào tạo đại học theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực và phù hợp; đổi mới quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động. Đồng thời, tiếp tục đổi mới phương pháp, hình thức dạy học đại học, nhanh chóng chuẩn hóa đội ngũ giảng viên đại học; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia quá trình đào tạo và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam; Tiếp tục gửi sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học tập, đào tạo, bồi dưỡng; Thực hiện kết hợp giữa chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước với huy động các nguồn lực xã hội; Kêu gọi đầu tư nước ngoài, thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.
Thứ tư, nâng cao năng lực và chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục: Để đáp ứng yêu cầu đào tạo trong môi trường CMCN 4.0, nhân lực ngành Giáo dục phải có những năng lực mới, năng lực sáng tạo và phẩm chất mới trên cơ sở chuẩn hóa, thông qua các hoạt động đào tạo, tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề, kỹ năng sư phạm và những kỹ năng mềm cần thiết khác. Đổi mới chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng nghề nghiệp cho giáo viên, giảng viên trên cơ sở chuẩn nhà giáo dục nhà nước hoặc quốc tế.
Đội ngũ quản lý giáo dục cũng cần được chuẩn hóa trên cơ sở chức danh nghề nghiệp gắn với vị trí việc làm. Đội ngũ này phải có đủ năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo cao và tự chịu trách nhiệm. Do vậy, cần tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ quản lý giáo dục cả trong và ngoài nước để đáp ứng yêu cầu công việc. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ và hiệu quả công tác. Phát triển đào tạo tại doanh nghiệp và gắn kết với doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo.
Thứ năm, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Cụ thể là, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, công nghệ thông tin, phương tiện dạy học trong dạy học và quản lý đào tạo. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục cả Nhà nước và tư nhân, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao tại cơ sở. Chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác người – máy. Tăng cường trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm với các trường đại học, giữa các viện nghiên cứu giáo dục, trường học trong nước với các viện, trường nước ngoài. Bên cạnh đó, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục; các hoạt động hợp tác đa phương, song phương trong các lĩnh vực của giáo dục như: Nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên cán bộ quản lý; quản trị nhà trường; tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý và xã hội để các nhà đầu tư nước ngoài mở cơ sở giáo dục chất lượng cao tại Việt Nam…
Tài liệu tham khảo:
- Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 112;
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Quyết định số 1215/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành: Chương trình hành động của ngành Giáo dục thực hiện chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2011-2020;
- Nguyễn Hồng Minh, Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp, Trang thông tin điện tử - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ngày 8/12/2016;
- Lê Hữu Lập, Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 9/4/2016;
- Nguyễn Đình Bắc, Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Tạp chí cộng sản, ngày 26/6/2018;
- Nguyễn Đắc Hưng (2017), Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và vấn đề đặt ra với giáo dục Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân.