Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030

Theo Lê Thị Ngọc/Tạp chí Cộng sản

Ngày 01/3/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 252/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2020. Đối với thị trường trái phiếu, để cụ thể hóa định hướng phát triển thị trường vốn tại Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 261/QĐ-TTg ngày 01/02/2013 ban hành lộ trình phát triển thị trường trái phiếu đến năm 2020.

Thị trường trái phiếu đã từng bước đóng vai trò là một kênh huy động vốn quan trọng cho ngân sách để đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguồn: internet
Thị trường trái phiếu đã từng bước đóng vai trò là một kênh huy động vốn quan trọng cho ngân sách để đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguồn: internet
Sau một thời gian triển khai, lộ trình đã tạo định hướng phát triển thị trường trái phiếu, tạo dựng niềm tin cho nhà đầu tư trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu cần có các giải pháp cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt trong việc liên kết giữa thị trường trái phiếu và thị trường tín dụng, tiền tệ. 

Thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn hiện nay

Tại Quyết định số 261/QĐ-BTC ngày 01/02/2013 của Bộ Tài chính đã xác định các giải pháp chính để phát triển thị trường trái phiếu đến năm 2020:

Phát triển thị trường sơ cấp đối với trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh, xây dựng và công khai kế hoạch và lịch biểu phát hành trái phiếu chính phủ hài hòa với lịch biểu phát hành trái phiếu chính phủ bảo lãnh, phù hợp với tình hình phát triển thị trường và nhu cầu của các nhà đầu tư; Xây dựng và phát triển hệ thống đại lý cấp I với chức năng tạo lập thị trường cơ bản trên thị trường sơ cấp.
Tập trung phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh theo phương thức đấu thầu; thực hiện các nghiệp vụ phát hành bổ sung trái phiếu, hoán đổi trái phiếu, mua lại trái phiếu để tăng cường tính thanh khoản trên thị trường; phát hành trái phiếu chính phủ với kỳ hạn dài hạn; nghiên cứu phát triển các sản phẩm phái sinh trái phiếu phù hợp với nhu cầu đầu tư.
Đối với trái phiếu doanh nghiệp, nghiên cứu xây dựng hệ thống thông tin về phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, nghiên cứu xây dựng đường cong lãi suất trái phiếu doanh nghiệp và khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa các loại hình trái phiếu doanh nghiệp khi thị trường phát triển ở trình độ cao hơn.

Phát triển thị trường thứ cấp, hoàn thiện cơ chế và hệ thống giao dịch trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh tại Sở Giao dịch chứng khoán, xây dựng chỉ số trái phiếu chính phủ, thí điểm áp dụng cơ chế giao dịch trái phiếu chính phủ ngay sau phiên đấu thầu/bảo lãnh.

Phát triển và đa dạng hóa hệ thống nhà đầu tư, khuyến khích Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ mua trái phiếu chính phủ; phát triển Chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện; đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư trái phiếu; khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân; rà soát, điều chỉnh hợp lý chính sách thuế và phí giao dịch trái phiếu đối với nhà đầu tư nước ngoài; Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước để có cơ chế và các công cụ tài chính phòng ngừa rủi ro tỷ giá; khuyến khích các tổ chức nước ngoài phát hành các chứng chỉ lưu ký toàn cầu được niêm yết trên thị trường nước ngoài với tài sản cơ sở là trái phiếu chính phủ trong nước.

Phát triển các định chế trung gian và hạ tầng thị trường, đẩy mạnh chương trình tái cơ cấu công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ theo các nguyên tắc và lộ trình quy định tại Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 và số 1826/QĐ-TTg ngày 06/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ; hiện đại hóa công nghệ thông tin và tăng cường sự kết nối giữa hoạt động đấu thầu, đăng ký, lưu ký và niêm yết trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh để rút ngắn thời gian niêm yết trái phiếu; thí điểm phát triển hệ thống thanh toán tiền mua trái phiếu phát hành sơ cấp, giao dịch trái phiếu thứ cấp và thanh toán lãi, gốc trái phiếu thông qua Ngân hàng Nhà nước; tổ chức triển khai cơ chế, chính sách về tổ chức và hoạt động của công ty định mức tín nhiệm trong nước; nghiên cứu và thí điểm hình thành hệ thống công bố thông tin về phát hành, giao dịch đối với trái phiếu doanh nghiệp.

Những kết quả đạt được về phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam

Trong thời gian qua, thị trường trái phiếu đã từng bước đóng vai trò là một kênh huy động vốn quan trọng cho ngân sách để đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bản thân thị trường chưa phát triển bền vững khi vẫn phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng, một số nhân tố của thị trường chưa được hoàn thiện (thiếu cơ chế cho vay trái phiếu, nhà tạo lập thị trường với đầy đủ quyền và nghĩa vụ như thông lệ quốc tế), hệ thống nhà đầu tư chưa đa dạng.
Trong khi đó, việc để kênh tín dụng ngân hàng cung cấp phần lớn nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế, trong khi đến 80% tổng nguồn vốn huy động của hệ thống này là nguồn vốn ngắn hạn đã tạo ra những áp lực về rủi ro hoạt động của hệ thống ngân hàng và đe dọa đến sự ổn định của hệ thống tài chính.
Do đó, để phát triển bền vững thị trường tài chính nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, nhiệm vụ quan trọng là phải phát triển thị trường trái phiếu cả về chiều rộng lẫn chiếu sâu để trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng và chủ yếu cho nền kinh tế, giảm bớt gánh nặng tín dụng trung hạn và dài hạn cho hệ thống ngân hàng.

Về phát triển thị trường sơ cấp, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa để đáp ứng nhu cầu của thị trường

Đối với trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo lãnh, với vai trò là nòng cốt của thị trường trái phiếu, thị trường trái phiếu chính phủ đã phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2011 - 2015, khối lượng phát hành đều đặn theo kế hoạch và lịch biểu phát hành công bố ra thị trường.
Theo đó, khối lượng huy động vốn cho ngân sách nhà nước qua phát hành trái phiếu chính phủ trong giai đoạn 2011 - 2015 đạt bình quân 185.000 tỷ/năm, đáp ứng 50% - 60% nhu cầu huy động vốn cho cân đối ngân sách hằng năm.
Việc nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới trên thị trường trái phiếu đã được chú trọng để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư, hiện nay trên thị trường đã có đầy đủ các kỳ hạn chuẩn 3 năm, 5 năm, 7 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm và 30 năm, các sản phẩm trái phiếu không trả lãi định kỳ, trái phiếu có kỳ trả lãi linh hoạt. Trong giai đoạn này, Bộ Tài chính cũng đã thực hiện các nghiệp vụ phát hành bổ sung trái phiếu, hoán đổi trái phiếu để tăng thanh khoản trên thị trường.

Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, giai đoạn 2011 - 2015 mặc dù phát triển nhanh so với giai đoạn 2007 - 2011 nhưng quy mô vẫn còn nhỏ, khối lượng phát hành bình quân giai đoạn này đạt 35.000 tỷ đồng/năm, tính đến cuối năm 2015 dư nợ của thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 3% GDP.

Về phát triển thị trường thứ cấp


Từ năm 2009, Bộ Tài chính đã tổ chức thị trường riêng cho thị trường trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.
Theo đó, trái phiếu được tập trung phát hành theo phương thức đấu thầu, đăng ký, lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường và hỗ trợ giao dịch trên thị trường thứ cấp.
Năm 2012, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 234/2012/TT-BTC ngày 28/12/2012 hướng dẫn quản lý giao dịch trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương, qua đó bảo đảm quyền và lợi ích của nhà đầu tư trên thị trường. Trong năm 2015, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội đã xây dựng và đưa vào hoạt động bộ chỉ số trái phiếu chính phủ, cung cấp thêm một công cụ chỉ báo cho thị trường.

Về phát triển hệ thống nhà đầu tư 

Đối với nhà đầu tư trong nước, Bộ Tài chính đã nghiên cứu, trình Chính phủ (i) ban hành chính sách đầu tư của Bảo hiểm xã hội theo hướng chuyên nghiệp (Nghị định 30/2016/NĐ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ); (ii) xây dựng và thiết lập chương trình hưu trí tự nguyện gồm sản phẩm bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện theo Quyết định số 144/QĐ-TTg ngày 20/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án hình thành và phát triển chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam nhằm tạo dựng nhà đầu tư dài hạn trên thị trường trái phiếu.
Đồng thời, Bộ Tài chính đã chủ động phát hành trái phiếu chính phủ có kỳ hạn dài trong điều kiện thị trường thuận lợi, phát hành trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm, 15 năm, 20 năm và 30 năm cho các công ty bảo hiểm để phát triển nhà đầu tư dài hạn trên thị trường trái phiếu và tái cơ cấu danh mục nợ trái phiếu chính phủ. Trên thị trường đã bắt đầu hình thành các quỹ chuyên đầu tư trái phiếu.

Đối với nhà đầu tư nước ngoài, đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2015/NĐ-CP ngày 26/6/2015 sửa đổi, bổ sung Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 hướng dẫn Luật Chứng khoán và Luật Chứng khoán sửa đổi, theo hướng không hạn chế đầu tư vào trái phiếu của nhà đầu tư nước ngoài.
Đồng thời thực hiện đơn giản hóa thủ tục đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài. Trong năm 2016, lần đầu tiên Bộ Tài chính cũng đã phát hành được 7.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 30 năm cho nhà đầu tư 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp bảo hiểm không có trụ sở tại Việt Nam.

Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường

Phát triển hệ thống thành viên đấu thầu trở thành nhà tạo lập thị trường trên thị trường trái phiếu chính phủ. Từ năm 2013, Bộ Tài chính đã thí điểm thành lập hệ thống thành viên đấu thầu với các quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể để tiến tới thiết lập các nhà tạo lập thị trường trên thị trường trái phiếu chính phủ.
Các thành viên đấu thầu có nghĩa vụ tham gia dự thầu và mua trái phiếu chính phủ hằng năm với khối lượng nhất định theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đồng thời phải công bố lãi suất hoặc giá tham chiếu chào mua, chào bán trên thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt.
Các nghĩa vụ này tạo thêm cầu cho thị trường, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp, góp phần giảm chi phí huy động vốn cho ngân sách và tăng thanh khoản cho thị trường. Quá trình triển khai thực hiện cho thấy các thành viên đấu thầu trái phiếu chính phủ đã phát huy được vai trò dẫn dắt trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp, góp phần làm tốt công tác huy động vốn trái phiếu chính phủ trong các năm vừa qua.
Hiện tại có 21 thành viên đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện làm thành viên đấu thầu trái phiếu chính phủ gồm 15 ngân hàng thương mại, 04 công ty chứng khoán và 2 thành viên đặc biệt là Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm tiền gửi.

Hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Ngày 26/9/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm. Ngày 17/4/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 507/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, khuôn khổ pháp lý cho việc hình thành và hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm đã được ban hành đầy đủ.
Hiện tại, Bộ Tài chính đang phối hợp với các bộ, ngành để xem xét, thẩm định hồ sơ cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ xếp hạng tín nhiệm. Việc tổ chức cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm được hình thành và đi vào hoạt động là một trong những bước đi để thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán: Triển khai Quyết định số 1826/QĐ-TTg ngày 06/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về tái cấu trúc thị trường chứng khoán và các doanh nghiệp bảo hiểm, trong giai đoạn 2011-2015, công tác tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán đã được triển khai theo hướng giảm số lượng và nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động; đồng thời, hoạt động của các công ty kiểm toán cũng có nhiều cải thiện để theo kịp sự phát triển của thị trường vốn. Việc tái cơ cấu, nâng cao năng lực của các tổ chức kinh doanh chứng khoán, công ty kiểm toán đã góp phần hỗ trợ sự phát triển chung của thị trường trái phiếu, thị trường vốn.

Một số hạn chế phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam

Cấu trúc thị trường trái phiếu đã từng bước được hoàn thiện theo hướng hình thành thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt. Tuy nhiên, đối với trái phiếu doanh nghiệp, tính thanh khoản còn hạn chế, nhà đầu tư thường nắm giữ trái phiếu đến ngày đáo hạn; đối với trái phiếu doanh nghiệp phát hành ra công chúng, do điều kiện phát hành, niêm yết, giao dịch tương tự như cổ phiếu nên chưa thu hút được doanh nghiệp tham gia huy động vốn.

Quy mô thị trường đã có sự tăng trưởng nhưng so với các nước trong khu vực quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam còn nhỏ, chỉ chiếm 24,14% GDP (quy mô thị trường trái phiếu của các nước trong khu vực chiếm từ 40-70% GDP); thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp chưa đáp ứng đủ yêu cầu huy động vốn ngày càng gia tăng của ngân sách nhà nước và các doanh nghiệp để phát triển sản xuất kinh doanh.

Về cơ sở nhà đầu tư, thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài: Hệ thống nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu vẫn chưa có sự thay đổi căn bản, nhà đầu tư chủ yếu vẫn là các ngân hàng thương mại, trong khi đó nhu cầu mua trái phiếu của các ngân hàng thương mại phụ thuộc nhiều vào thanh khoản hệ thống và điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Do vậy, trong các giai đoạn lãi suất có xu hướng giảm, nhu cầu mua trái phiếu tăng mạnh và ngược lại, điều này dẫn đến sự bất ổn định trên thị trường trái phiếu. Quy mô thị trường bảo hiểm còn nhỏ; Bảo hiểm xã hội Việt Nam chưa tham gia thị trường trái phiếu một cách chuyên nghiệp, tỷ lệ đầu tư vào trái phiếu chính phủ còn thấp so với tổng số vốn đầu tư; Việc triển khai thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vẫn còn những khó khăn, vướng mắc và trong thời gian tới cần đẩy mạnh thu hút dòng vốn này trên cơ sở có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành.

Về hệ thống định chế trung gian: Hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ chưa cao do năng lực tài chính còn hạn chế.

Về công tác phối hợp và áp dụng thông lệ quốc tế: Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật và điều hành thị trường trái phiếu tại một số thời điểm còn chưa nhịp nhàng, đồng bộ và hiệu quả, đặc biệt là giữa chính sách tài chính, tiền tệ, đầu tư. Một số quy định và thông lệ quốc tế của thị trường trái phiếu khó áp dụng tại Việt Nam do thị trường đang trong giai đoạn đầu phát triển, nhiều yếu tố của thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ.

Một số nguyên nhân 


Nguyên nhân chủ quan: Trong các cấu phần của thị trường trái phiếu, thị trường trái phiếu chính phủ phát triển hơn, quy mô ngày càng tăng và thanh khoản cao hơn; thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn chưa phát triển xuất phát từ các nguyên nhân:
(1) Thời gian qua mặc dù đã có sự gắn kết giữa thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng ngân hàng với thị trường trái phiếu, nhưng chưa có sự liên thông giữa các thị trường này. Thị trường tín dụng ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, bao gồm cả vốn trung và dài hạn (kể cả cho vay vốn để đầu tư các dự án kết cấu hạ tầng) nên các doanh nghiệp không quan tâm đến kênh huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu;
(2) Hiện tại cầu về trái phiếu doanh nghiệp còn thấp trong bối cảnh nhà đầu tư là các tổ chức tài chính phi ngân hàng (quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư) chưa phát triển. Bên cạnh đó, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế còn thấp nên nhu cầu đầu tư của các cá nhân thông qua các định chế đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp còn hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế vĩ mô chưa ổn định nên các kênh đầu tư vào bất động sản, vàng, ngoại hối được ưa thích do mang lại lợi nhuận cao hơn;
(3) Đối với cung trái phiếu doanh nghiệp, hiện tại thị trường còn thiếu các nhà phát hành là doanh nghiệp có quy mô lớn, có uy tín. Các doanh nghiệp vẫn chưa có thói quen huy động vốn qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Công tác quản trị công ty, quản lý tài chính, kế toán còn hạn chế nên ảnh hưởng đến việc huy động vốn của doanh nghiệp qua thị trường. Các trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành giao dịch còn hạn chế và thiếu thanh khoản trên thị trường thứ cấp. Cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy môi trường đầu tư, kinh doanh nói chung còn chưa đồng bộ, chưa tính đến yếu tố khuyến khích lâu dài; việc triển khai, phối hợp còn chậm giữa các bộ, ngành. Hiện tại, chưa có chiến lược tổng thể đối với việc khai thác dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam.

Nguyên nhân khách quan: Kinh tế trong nước giai đoạn 2011-2015 phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như vấn đề lạm phát, tỷ giá, thị trường bất động sản, nợ xấu ngân hàng. Kinh tế vĩ mô chưa ổn định nên thị trường trái phiếu chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, thói quen tiết kiệm và tích lũy dài hạn của dân cư còn hạn chế đã ảnh hưởng tới nguồn vốn dài hạn trong nền kinh tế, từ đó tác động đến thu hút vốn dài hạn vào thị trường trái phiếu. 

Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm 2030

Phát triển thị trường sơ cấp

Đối với trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo lãnh, tiếp tục thực hiện các nghiệp vụ thị trường đang phát huy hiện quả tốt hiện nay bao gồm: tập trung phát hành theo phương thức đấu thầu, xây dựng và công bố công khai lịch biểu phát hành, đa dạng hóa các sản phẩm, thực hiện các nghiệp vụ về phát hành bổ sung trái phiếu, hoán đổi trái phiếu, mua lại trái phiếu; phát triển hệ thống đại lý cấp I với đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ sau khi hoàn thiện cơ sở pháp lý.
Đối với trái phiếu doanh nghiệp, phân biệt rõ điều kiện và quy trình phát hành trái phiếu doanh nghiệp để vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát hành vừa bảo đảm tính công khai minh bạch của thị trường và bảo vệ nhà đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa các loại hình trái phiếu doanh nghiệp khi thị trường phát triển ở trình độ cao hơn; ban hành chính sách khuyến khích tiến tới yêu cầu các doanh nghiệp, các tập đoàn huy động vốn trung và dài hạn thông qua việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp thông qua chính sách thuế và chính sách duy trì bảo đảm an toàn đối với thị trường tín dụng của hệ thống ngân hàng; ban hành các quy chế hướng dẫn quy trình thủ tục phát hành trái phiếu doanh nghiệp theo thông lệ thị trường.

Phát triển thị trường thứ cấp


Nghiên cứu, cải tiến hệ thống giao dịch trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương tại Sở Giao dịch chứng khoán; tăng cường chế độ trách nhiệm của thành viên thị trường thứ cấp trong công tác báo cáo giao dịch; yêu cầu các nhà tạo lập thị trường thực hiện nghĩa vụ chào giá hai chiều (giá mua, giá bán) đối với các mã trái phiếu chính phủ tiêu chuẩn; cho vay trái phiếu đối với các nhà tạo lập thị trường trái phiếu khi thực hiện nghĩa vụ chào giá mua và giá bán; xây dựng đường cong lãi suất và chỉ số trái phiếu chính phủ; rà soát các chi phí liên quan đến đăng ký lưu ký, niêm yết và giao dịch trên thị trường.
Triển khai việc cho phép các thành viên tạo lập thị trường được vay trái phiếu để bán trong ngày thanh toán trái phiếu và xây dựng khung hợp đồng mẫu giao dịch có kỳ hạn (repos) chuẩn.

Phát triển và đa dạng hóa hệ thống nhà đầu tư

Thực hiện chuyển toàn bộ hình thức cho vay trực tiếp đối với ngân sách nhà nước của Bảo hiểm xã hội Việt Nam sang hình thức đầu tư trái phiếu chính phủ sau khi Đề án chuyển đổi khoản vay sang trái phiếu chính phủ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; thực hiện đầu tư trái phiếu chính phủ thông qua phương thức đấu thầu; đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp có xếp hạng tín nhiệm cao khi pháp luật cho phép. Khuyến khích tăng tỷ trọng đầu tư vào trái phiếu chính phủ, giao Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi chính sách đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm theo hướng khuyến khích đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm tốt.
Thực hiện các giải pháp thúc đẩy việc hình thành và phát triển hệ thống chương trình hưu trí tự nguyên (sản phẩm bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí) thông qua chính sách thuế; rà soát và kiến nghị điều chỉnh theo hướng thống nhất cơ chế thu nhập cá nhân giữa tiền gửi tiết kiệm và tiền đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp; nghiên cứu thí điểm phương thức bán lẻ trái phiếu cho nhà đầu tư cá nhân; đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư mục tiêu trong đó bao gồm các loại quỹ đầu tư trái phiếu; khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài.
Rà soát, sửa đổi lại chính sách quy định về tỷ lệ nắm giữ của các tổ chức tín dụng đối với trái phiếu chính phủ theo hướng bỏ quy định về tỷ lệ nắm giữ, trong trường hợp cần thiết phải quy định thì sẽ loại bỏ các trái phiếu sử dụng để giao dịch nhằm phản ánh đúng bản chất đầu tư trái phiếu chính phủ của các tổ chức tín dụng; rà soát sửa đổi các quy định về nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng theo hướng phù hợp với bản chất của giấy tờ có giá.

Về phát triển định chế trung gian và dịch vụ thị trường

Đẩy mạnh chương trình tái cơ cấu công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ theo các nguyên tắc và lộ trình quy định tại Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 01/3/2011, số 1826/QĐ-TTg ngày 06/12/2012 và Quyết định số 254/QĐ/TTg ngày 13/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tái cơ cấu các tổ chức tín dụng; ban hành chính sách và cấp phép cho các đại lý quản lý trái phiếu hộ cho các nhà đầu tư; báo cáo Chính phủ (thông qua Tổng công ty đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp) góp vốn cùng thành viên thị trường và các đối tác khác để thành lập công ty định hạng tín nhiệm trong nước.
Hiện đại hóa công nghệ thông tin về hệ thống đấu thầu, đăng ký, lưu ký và niêm yết trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh, phấn đấu rút ngắn thời gian từ khâu phát hành đến niêm yết trái phiếu từ T+3 vào năm 2015 xuống còn T+2 vào năm 2020 và T+1 vào năm 2025.
Chuyển chức năng thanh toán trái phiếu, bao gồm cả trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp từ ngân hàng thương mại sang Ngân hàng Nhà nước./.
----------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo

1. Báo cáo tổng kết về phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam của Ủy Ban chứng khoán Nhà nước từ năm 2010 đến năm 2016.

2. Báo cáo tình hình phát triển thị trường tài chính, dịch vụ tài chính năm 2016 và kế hoạch phát triển năm 2017 tại Hội nghị tổng kết của Bộ Tài chính năm 2016.

3. Báo cáo huy động vốn, điều hành ngân quỹ hiệu quả, tăng cường kiểm soát chi ngân sách Nhà nước để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư và đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu chi ngân sách của các đơn vị, tại Hội nghị tổng kết của Bộ Tài chính năm 2016.