Quá trình áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại các ngân hàng thương mại Việt Nam


Việc các ngân hàng thương mại (NHTM) áp dụng tiêu chuẩn Basel II là một xu thế tất yếu và bắt buộc khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Bài viết khái quát lại quá trình áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại các NHTM Việt Nam cũng như phân tích về một số khó khăn, vướng mắc mà các ngân hàng gặp phải khi áp dụng tiêu chuẩn Basel II.

Tổng quan về Basel II

Năm 1988, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã giới thiệu khung rủi ro tín dụng (Basel I) xác định các tiêu chuẩn về vốn để hạn chế rủi ro kinh doanh của các ngân hàng và tăng cường hệ thống tài chính. Để đáp ứng các yêu cầu của phát triển liên tục trong ngành Ngân hàng, các quy định này đã được sửa đổi và vào tháng 6/2004, một Hiệp ước về vốn mới (Basel II) được ban hành với mục tiêu: nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế… Nhằm đạt được các mục tiêu này, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung đo lường với các trụ cột chính cho phiên bản Basel II:

- Trụ cột thứ I: Liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo 3 yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt như: Rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành và rủi ro thị trường.

Quá trình áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Ảnh 1

- Trụ cột thứ II: Liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt như: Rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại. Tóm lại, Basel II nhấn mạnh các nguyên tắc rà soát, giám sát sau:

- Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.

- Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu; Giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.

- Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định.

- Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), khi tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu tăng từ 7% lên 8% thì xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng giảm đi khoảng 25-30%.

- Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường.

Quá trình áp dụng Basel II của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Lộ trình áp dụng

Để áp dụng Basel II, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra một lộ trình đối với hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM). Theo đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước và Thông tư số 13/2018/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để triển khai 3 trụ cột theo phương pháp tiêu chuẩn Basel II. Cụ thể:

Giai đoạn 1: Thí điểm áp dụng Basel II tại 10 ngân hàng là: Vietcombank, VietinBank, BIDV, MB, Sacombank, Techcombank, ACB, VPBank, VIB và Maritime Bank. Chương trình thí điểm bắt đầu từ tháng 2/2016, mục tiêu đến cuối năm 2018 các ngân hàng này phải cơ bản đáp ứng các yêu cầu của Basel II.

Giai đoạn 2: Đến năm 2020, cơ bản các NHTM có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II, trong đó có ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel II (theo Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 ngày 8/11/2016).

Quá trình thực hiện áp dụng Basel II của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong 10 ngân hàng thực hiện thí điểm áp dụng Basel II thì có VIB là ngân hàng đầu tiên được công nhận đạt chuẩn Basel II, VIB đã được Thống đốc NHNN Việt Nam trao quyết định áp dụng Thông tư số 41/2016/TT-NHNN kể từ ngày 01/01/2019. Việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của Basel II cho thấy, VIB có đủ khả năng hoạt động an toàn theo thông lệ tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới để phòng ngừa các rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động có thể xảy ra. Tiếp theo là các ngân hàng như: Vietcombank, MBBank, VPBank, BIDV cũng được công nhận đạt chuẩn Basel II vào cuối năm 2019.

Cuối năm 2019, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 22/2019/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong đó cho phép lùi thời gian cho các ngân hàng chưa áp dụng đầy đủ các tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn Basel II đến trước ngày 1/1/2023 thay vì 01/01/2021.

Đến cuối năm 2020, có 18 NHTM đạt chuẩn Basel II gồm: VIB, Vietcombank, MB Bank, Techcombank, ACB, MSB, HDBank, OCB, VPBank, VietBank, VietCapitalBank, SeABank, ShinhanBank, LienVietPostBank, NamABank, Standard Chartered Việt Nam và BIDV.

Tuy nhiên, mới chỉ có 6 trong số 18 ngân hàng đạt chuẩn Base II đã hoàn thành cả 3 trụ cột, còn lại 12 ngân hàng mới hoàn thành trụ cột 1. Như vậy, 12 ngân hàng này chỉ mới dừng lại ở việc "đo lường và đảm bảo mức độ an toàn vốn tối thiểu" trong khi trụ cột 2 được xem khó thực hiện nhất là xây dựng "quy trình đánh giá nội bộ về mức độ đủ vốn" thì chưa thực hiện được.

Khó khăn khi thực hiện áp dụng Basel II của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Việc triển khai Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, sự đầu tư lớn về tài chính, nguồn nhân lực, hệ thống công nghệ thông tin, năng lực thanh tra... do đó các ngân hàng sẽ khó thực hiện được ngay.

Vốn vẫn đang là vướng mắc lớn để các NH đạt được yêu cầu, đáp ứng chuẩn Basel II, đặc biệt trong bối cảnh thị trường chứng khoán gần đây diễn biến không thuận lợi, trong khi các ngân hàng vẫn đang tập trung xử lý nợ xấu của nhiều năm trước. Điều này còn trở nên khó khăn hơn khi hiện nay ngân hàng lại phải dành nguồn lực để cơ cấu lại nợ, giảm lãi, giảm phí hỗ trợ khách hàng và nền kinh tế vượt qua đại dịch COVID-19.

Trong số các ngân hàng chưa được công nhận đạt chuẩn Basel II phải kể đến 2 ngân hàng lớn là VietinBank và Agribank. Hiện VietinBank là NHTM cổ phần có vốn nhà nước chi phối duy nhất chưa đạt chuẩn Basel II. VietinBank sẽ đảm bảo hệ số an toàn vốn (CAR) theo chuẩn Basel II sau khi tăng vốn từ chia cổ tức bằng cổ phiếu. Tuy nhiên, áp lực tăng vốn của ngân hàng vẫn rất lớn.

Quá trình áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Ảnh 2

Trường hợp thứ hai là Agribank, do là ngân hàng 100% sở hữu Nhà nước nên vốn điều lệ chỉ có thể được bổ sung từ ngân sách. Tuy nhiên, 9 năm qua Agribank chưa được tăng vốn điều lệ. Do chưa đáp ứng chuẩn mực Basel II nên Agribank đang được thực hiện tỷ lệ an toàn vốn theo quy định cũ (Thông tư số 22/2019/TT-NHNN). Theo đó, vốn điều lệ của Agribank hiện đạt 30.591 tỷ đồng, tỷ lệ an toàn vốn vào cuối 2019 là 9,2%, cận kề ngưỡng tối thiểu theo quy định là 9% của Thông tư số 22/2019/TT-NHNN.

Những tiêu chí của Thông tư số 41/2016/TT-NHNN chỉ là bước đầu tiên trong 3 trụ cột của Basel II. Sau khi đáp ứng tỷ lệ về an toàn vốn tối thiểu, các ngân hàng sẽ cần phải hoàn thiện 2 trụ cột còn lại liên quan đến quy trình đánh giá mức độ đầy đủ vốn nội bộ (ICAAP), khả năng giám sát và công khai thông tin theo nguyên tắc thị trường. Để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về triển khai chuẩn mực Basel II tại Việt Nam, NHNN đã ban hành Thông tư số 13/2018/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ đối với tổ chức tín dụng, trong đó có cấu phần quy định về đánh giá nội bộ mức đủ vốn ICAAP để thực hiện 2 trụ cột của Basel II.

Thông tư này yêu cầu ngân hàng cải thiện hoạt động quản lý rủi ro, phù hợp với yêu cầu của Basel II và các thông lệ tiên tiến về quản lý rủi ro. Khó khăn mà các ngân hàng trong quá trình triển khai là chi phí và thiếu dữ liệu lịch sử. Dù chưa có ngân hàng nào công bố thông tin về chi phí để triển khai Basel II, dựa trên kinh nghiệm của một số tổ chức tín dụng đã triển khai dự án Basel II tại khu vực châu Á chi phí để chuyển đổi Basel II là rất lớn. Ngân hàng quy mô càng lớn thì chi phí chuyển đổi cũng tăng theo, việc thu thập dữ liệu quá khứ và phân tích cũng là điểm khó của các ngân hàng, quá trình này rất phức tạp đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của ngân hàng.

Kết luận

Chuẩn mực Basel II là giải pháp tối ưu để các NHTM trụ vững trước những biến động khó lường của thị trường tài chính. Với Basel II, mọi rủi ro đều phải được lượng hóa bằng con số cụ thể và con số này sẽ chỉ ra rằng ngân hàng cần bao nhiêu vốn để có thể bù đắp rủi ro. Việc triển khai Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, sự đầu tư lớn về tài chính, nguồn nhân lực... do đó các ngân hàng sẽ khó khăn trong việc thực hiện. Tuy nhiên, bước đầu các NHTM của Việt Nam đáp ứng được trụ cột 1 cũng xem là thành quả tích cực. NHNN cần tháo gỡ thêm nhiều vướng mắc về vốn điều lệ để hướng đến mục tiêu đến hết năm 2025, toàn bộ ngân hàng sẽ áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn, và triển khai thí điểm áp dụng Basel II theo phương pháp nâng cao tại các ngân hàng có chất lượng quản trị tốt.

Tài liệu tham khảo:

  1. Báo cáo công bố thông tin về vốn của các ngân hàng;
  2. Ngân hàng Nhà nước (2016), Thông tư số 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
  3. Ngân hàng Nhà nước (2018), Thông tư số 13/2018/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
  4. Ngân hàng Nhà nước (2019), Thông tư số 22/2019/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

* Ths. Nguyễn Thị Dung - Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Hà Tĩnh

** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 6/2022