Quản lý ngân sách nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị


Bài viết này phân tích thực trạng quản lý thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2022. Kết quả cho thấy, hoạt động quản lý NSNN đã góp phần không nhỏ giúp nước ta đạt được những bước tiến đầy ấn tượng trong những năm qua. Kinh tế duy trì tăng trưởng cao và ổn định, góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Đặc biệt, năm 2021, trong khi phần lớn các quốc gia có mức tăng trưởng rất thấp, thậm chí là tăng trưởng âm và đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới; đời sống của người dân luôn được đảm bảo. Dựa trên kết quả phân tích, bài báo cũng đã đề xuất một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao chất lượng quản lý NSNN tại Việt Nam trong thời gian đến.

Mở đầu

Quản lý NSNN là hoạt động có vai trò rất quan trọng trong điều hành tài chính của một quốc gia. Nâng cao chất lượng quản lý NSNN sẽ góp phần huy động một cách tốt nhất các nguồn lực tài chính, phân bổ và sử dụng các nguồn lực này một cách hiệu quả, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội. Tại Việt Nam, NSNN luôn là công cụ đảm bảo nguồn vốn ổn định để nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an sinh xã hội.

Hoạt động quản lý NSNN trong những năm qua ở nước ta đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra sự tăng trưởng GDP bình quân đầu người đầy ấn tượng, từ 1.684,01 USD năm 2010 lên đến 3.756,49 USD vào năm 2021, tăng đến 223% (theo Ngân hàng Thế giới). Đặc biệt, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia vượt qua những tác động về kinh tế của đại dịch khá tốt (theo Forbes). Hoạt động quản lý NSNN bao gồm các hoạt động quản lý thu, chi và cân đối NSNN. Trong đó, hoạt động quản lý thu, chi NSNN đóng vai trò cốt lõi, tạo nền tảng và tiền đề cho hoạt động cân đối ngân sách. Bài viết này tập trung làm rõ công tác quản lý thu, chi NSNN tại Việt Nam giai đoạn 2018-2022. Từ đó, nhận diện một số vấn đề nổi bật trong quản lý NSNN ở nước ta và đề xuất một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý NSNN.

Thực trạng quản lý thu, chi ngân sách nhà nước tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2022

Thu ngân sách nhà nước

Thu NSNN là quá trình huy động, thu nhận các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nguồn vốn để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ chi tiêu, các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Thông qua các công cụ thu NSNN, đặc biệt là các công cụ mang tính chất bắt buộc như thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu…), Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội nhằm hạn chế đến mức thấp nhất khuyết tật của thị trường, phát huy những mặt tích cực, từ đó nỗ lực làm cho thị trường hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.

Xét ở góc độ quy mô, thu NSNN theo dự toán có xu hướng tăng trong giai đoạn 2018-2022. Năm 2020, do chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19, thu NSNN bị chững lại so với năm 2019, nhưng đã có sự tăng trưởng nhẹ trở lại từ năm 2021. Đặc biệt, mức thu ngân sách tăng mạnh vào năm 2022 (tăng 14,99% so với ước thực hiện năm 2021) khi dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, và hoạt động kinh tế tiếp tục duy trì đà phục hồi và tăng trưởng khả quan (GDP năm 2022 tăng 8,02%). Điều đáng lưu ý số thu NSNN trong năm 2022 tăng hơn so với năm 2019 (năm trước dịch COVID-19), từ 1.553.111 tỷ đồng năm 2019 lên 1.815.470 tỷ đồng năm 2022 (tăng đến hơn 16%). Đây là tín hiệu đáng mừng trong công tác quản lý NSNN khi tổng thu NSNN năm 2022 đã tăng trưởng mạnh so với năm 2019 (năm trước dịch bệnh).

Xét ở góc độ thực hiện so với dự toán, tổng thu NSNN năm 2022 ước đạt 1.815.470 tỷ đồng, bằng 127,76% dự toán, đạt tỷ lệ cao nhất trong giai đoạn 2018-2022. Kết quả này có được một phần nhờ việc tăng cường kiểm soát từ hoạt động thu, tăng cường sử dụng hóa đơn điện tử, tăng cường kiểm tra, kiểm soát và đôn đốc các nguồn thu đặc biệt là nguồn thu từ thuế.

Quản lý ngân sách nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị - Ảnh 1

Xét ở khía cạnh huy động nguồn thu so với GDP, quy mô thu ngân sách bình quân đạt 22% GDP trong giai đoạn 2018-2022. Tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP có xu hướng giảm liên tục từ năm 2018 đến mức thấp nhất 18,7% năm 2021. Năm 2022, tỷ lệ động viên vào NSNN có sự tăng nhẹ lên mức 19% GDP. Trong 2 năm (2021 và 2022), tuy quy mô thu NSNN không ngừng tăng lên nhưng tỷ lệ huy động ngân sách so với GDP lại giảm. Điều này có nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ các chính sách giảm thuế của Nhà nước để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn do dịch bệnh COVID-19. Cụ thể, trong năm 2021 do dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp, Chính phủ đã đưa ra một loạt các chính sách hỗ trợ, chẳng hạn gia hạn nộp tiền thuế và thuê đất cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh (Nghị định 41/2020/NĐ-CP, ngày 08/04/2020), giảm 30% tiền thuê đất cho các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân đang được Nhà nước cho thuê đất (theo Quyết định 27/2021/QĐ-TTg), giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp có doanh thu không quá 200 tỷ đồng và doanh thu năm 2021 giảm so với doanh thu năm 2019 (theo Nghị định số 92/2021/NĐ-CP, ngày 27/10/2021 quy định chi tiết Nghị quyết 406/NQ-UBTVQH15 hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng COVID-19). Các chính sách này giúp giảm gánh nặng thuế đối với khu vực tư nhân, qua đó kích thích khu vực này hồi phục và phát triển, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước trong năm tiếp theo (hậu COVID-19). Nhìn chung, tỷ lệ huy động nguồn thu trên GDP, dù có giảm trong 2 năm 2021 và 2022, bình quân trong giai đoạn 2018-2022 vẫn đạt hơn 22%. Tỷ lệ này đáp ứng tốt và thậm chí vượt mức yêu cầu nêu trong Nghị quyết số 23/2021/QH15 về kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025. Theo đó, tỷ lệ huy động vào NSNN bình quân không được thấp hơn 16% GDP.

Xét về nguồn thu, cơ cấu thu trong giai đoạn 2018-2022 tương đối bền vững với tỷ trọng nguồn thu nội địa chiếm bình quân đến 82% tổng thu ngân sách. Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu (XNK) chiếm bình quân 14%, và các khoản thu từ dầu thô chiếm 3,5%. Việc nguồn thu nội địa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN đã tạo ra cơ cấu thu tương đối bền vững. Theo đó nguồn thu sẽ chủ yếu dựa vào "nội lực" của quốc gia và ít phục thuộc vào tình hình XNK với thế giới.

Tuy nhiên, trong 3 năm gần đây (2020, 2021, 2022), tỷ trọng các khoản thu từ hoạt động XNK lại có xu hướng tăng lên, ngược lại các khoản thu nội địa lại có xu hướng giảm trong giai đoạn này. Điều này thể hiện vai trò quan trọng của hoạt động XNK đến thu NSNN trong những năm gần đây, nhưng mặt khác cũng cho thấy sự phụ thuộc của nguồn thu vào hoạt động kinh tế đối ngoại có xu hướng tăng lên. Do vậy, để đảm bảo tỷ trọng thu nội địa bình quân phải đạt khoảng 85%-86% tổng thu NSNN (theo Nghị quyết số 23/2021/QH15 về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025), việc tiếp tục duy trì và tăng cường tỷ trọng từ nguồn thu nội địa là hết sức cần thiết. Để áp ứng điều này, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách hệ thống thuế, theo hướng tăng các loại thuế nội địa để bù đắp sự sụt giảm của các thuế loại thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Đồng thời, Chính phủ cần định hướng, sắp xếp lại và đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoạt động không hiệu quả hoặc những DNNN hoạt động ở các lĩnh vực mà khu vực tư nhân đã đảm nhận tốt. Bên cạnh đó, cần tăng cường thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển để gia tăng sản xuất trong nước, qua đó từng bước gia tăng tỷ trọng nguồn thu nội địa trong tổng nguồn thu NSNN.

Chi ngân sách nhà nước

Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước và tài trợ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước cũng như tạo ra tiền đề vật chất cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói, đây là hoạt động có quy mô và độ bao phủ rộng lớn trên nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương và nhiều cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp có liên quan.

Tại Việt Nam, xét trong giai đoạn 2018-2022 (ngoại trừ năm 2021), quy mô chi NSNN nhìn chung có xu hướng tăng, từ mức 1.435.435 tỷ đồng vào năm 2018 lên đến 1.836.687 tỷ đồng vào năm 2022. Mức chi NSNN giảm từ 1.709.524 tỷ đồng năm 2020 xuống còn 1.708.088 tỷ đồng năm 2021 chủ yếu là do ảnh hưởng rất lớn từ dịch COVID-19, dẫn đến sự cắt giảm hoạt động chi đầu tư phát triển. Thật vậy, tỷ trọng chi đầu tư phát triển so với tổng chi NSNN giai đoạn 2018-2022 có sự biến động đáng chú ý. Tỷ lệ này từ mức là 27,5% vào năm 2018 tăng lên gần 34% vào năm 2020. Tuy nhiên, năm 2021, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn hơn 30%. Việc quy mô và tỷ trọng chi đầu tư phát triển có dấu hiệu chững lại trong năm 2021 một phần là do dịch bệnh COVID-19 diễn biến rất phức tạp khiến cho việc giải ngân nguồn vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn (do việc duy trì các biện pháp hạn chế dịch chuyển).

Bên cạnh đó, việc phân bổ, giao chi tiết kế hoạch đầu tư vốn NSNN tại các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương còn chậm. Cơ chế giải quyết việc chậm phân bổ ngân sách chưa thật quyết liệt và một số vướng mắc trong đầu tư, như: giải phóng mặt bằng, tái định cư tại một số dự án chậm được xử lý cũng là các nguyên nhân khiến cho việc giải ngân đầu tư công vào năm này chưa thật tốt (Tổng cục Thống kê, 2021). Hơn nữa, các khoản thu và chi chuyển nguồn trong giai đoạn này vẫn còn cao. Cụ thể, khoản thu chuyển nguồn sang năm 2021 là 643.406 tỷ đồng và các khoản chi chuyển nguồn từ năm 2021 sang năm 2022 lên đến 776.351 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu của việc tăng khoản thu và chi chuyển nguồn là do việc giải ngân vốn đầu tư công chậm và một số nhiệm vụ chi trong năm 2021 không thực hiện tốt do tác động của dịch bệnh COVID-19.

Điều đáng mừng là tỷ lệ chi NSNN cho đầu tư phát triển đã nhanh chóng tăng trở lại và đạt mức 35% vào năm 2022, cho thấy sự quan tâm và ưu tiên nguồn lực của Chính phủ đối với việc đầu tư vào phát triển kinh tế và xã hội, nhằm tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển của đất nước.

Quản lý ngân sách nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị - Ảnh 2

Trong cơ cấu chi NSNN, chi thường xuyên chiếm tỷ trọng từ khoảng 60% đến 65% tổng chi ngân sách trong giai đoạn 2018-2022. Tỷ trọng chi thường xuyên trong tổng chi NSNN duy trì ở mức 60% trong 2 năm gần đây (năm 2021 và năm 2022) đã cho thấy nỗ lực tiết kiệm trong chi tiêu của Chính phủ và từ đó gia tăng tỷ trọng chi NSNN cho đầu tư phát triển, vốn có ý nghĩa rất lớn đối với mục tiêu tăng trưởng. Thật vậy, việc duy trì cơ cấu chi ngân sách với tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng dần qua từng năm sẽ góp phần tích lũy thêm nhiều tài sản quốc gia và gia tăng hạ tầng kinh tế - xã hội, qua đó tạo điệu kiện thu hút đầu tư tư nhân và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội.

Việc giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống khoảng 60% đồng thời gia tăng chi đầu tư phát triển là cũng một trong những mục tiêu đặc biệt quan trọng được nêu trong Nghị quyết về kế hoạch tài chính quốc gia (Nghị quyết số 23/2021/QH15 về kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025). Để đảm bảo nội dung này, việc điều hành NSNN cần tích cực cơ cấu lại chi ngân sách theo hướng bền vững, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên, và tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, Chính phủ và các địa phương cần tiếp tục rà soát và thực hiện sắp xếp lại DNNN theo hướng chỉ tập trung giữ những doanh nghiệp đang hoạt động ở những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh hoặc những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư hoặc đầu tư không hiệu quả.

Song song với đó, cần đẩy mạnh rà soát, hoàn thiện đồng bộ cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở thực hiện tính đúng, tính đủ giá dịch vụ sự nghiệp công theo lộ trình, bảo đảm công khai, minh bạch. Sớm ban hành các định mức kinh tế - kỹ thuật làm cơ sở cho việc xác định giá dịch vụ sự nghiệp công, phấn đấu đến năm 2025 giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% số lượng đơn vị sự nghiệp công lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ NSNN so với năm 2021, hướng tới giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ NSNN cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2016-2020 theo tinh thần của Nghị quyết số 23/2021/QH15.

Kết luận và khuyến nghị

Quản lý NSNN là một trong những nội dung quan trọng trong quản lý tài chính công và là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế và xã hội. Tại Việt Nam, quản lý tốt NSNN đã góp phần quan trọng giúp nước ta đạt được những bước tiến đầy ấn tượng trong những năm qua. Kinh tế duy trì tăng trưởng cao và ổn định, góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Đặc biệt, năm 2021, trong khi phần lớn các quốc gia có mức tăng trưởng rất thấp, thậm chí là tăng trưởng âm và đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng đạt 2,91%, thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Bài viết đã tập trung phân tích rõ thực trạng thu và chi NSNN ở nước ta trong giai đoạn 2018-2022. Từ việc phân tích này, chúng tôi đề xuất một số các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thu, chi NSNN trong thời gian đến.

Thứ nhất, đảm bảo sự minh bạch và tin cậy của dự toán thu - chi NSNN

Để thực hiện điều này, cần tiếp tục nâng cao chất lượng dự toán thu, chi NSNN theo hướng dự toán phải thật sự bám sát kế hoạch thực hiện thu, chi NSNN, hạn chế đến mức thấp nhất sự sai lệch giữa số dự toán và số thực hiện và do đó đảm bảo sự chính xác, đáng tin cậy của dự toán ngân sách. Vì vậy, quá trình lập dự toán NSNN cần dựa trên các mục tiêu phát triển của đất nước, và phản ánh đúng nhu cầu và ưu tiên của quốc gia. Do vậy, quá trình lập dự toán phải dựa trên phân tích cẩn thận về các lĩnh vực quan trọng như giáo dục, y tế, phát triển kinh tế, hạ tầng và an ninh quốc phòng; song song với đó, sự minh bạch trong quá trình lập dự toán ngân sách, công bố thông tin về nguồn thu và chi tiêu một cách rõ ràng, và tăng cường trách nhiệm của các khâu lập dự toán là cực kỳ quan trọng. Bên cạnh đó, dự toán NSNN cần phải đảm bảo sự cân đối giữa nguồn thu và chi tiêu, theo đó thu chi phải được điều chỉnh một cách hợp lý để tránh thâm hụt ngân sách lớn NSNN hoặc sử dụng lãng phí nguồn lực nhà nước.

Thứ hai, tiếp tục duy trì và tăng cường tỷ trọng từ nguồn thu nội địa để đảm bảo sự bền vững trong cơ cấu thu NSNN

Để đảm bảo tỷ trọng thu nội địa bình quân phải đạt khoảng 85-86% tổng thu NSNN theo Nghị quyết số 23/2021/QH15, việc tiếp tục duy trì và tăng cường tỷ trọng từ nguồn thu nội địa là hết sức cần thiết. Vì vậy, trong những năm đến cần hoàn thiện hệ thống thuế theo hướng tăng các loại thuế nội địa và điều chỉnh cơ cấu thuế nhằm tạo sự khuyến khích cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. Các biện pháp này có thể bao gồm giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu đầu vào sử dụng cho hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước… Đồng thời, khuyến khích sản xuất và tiêu dùng trong nước thông qua việc tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút doanh nghiệp và đầu tư trong nước, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh các chương trình khuyến khích đầu tư, tăng cường hỗ trợ và khuyến khích đầu tư từ các nguồn tài chính nội địa, hỗ trợ doanh nghiệp và xúc tiến thương mại nội địa.

Thứ ba, tích cực rà soát cổ phần hóa và đẩy nhanh việc thoái vốn nhà nước tại một số DNNN

Việc sắp xếp lại, cổ phần hóa DNNN hoạt động không hiệu quả hoặc những DNNN mà khu vực tư nhân đã đảm nhận tốt sẽ góp phần nâng cao hiệu quả vốn nhà nước và thúc đẩy nguồn thu ngân sách. Để nhanh chóng thực hiện điều này, Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc cổ phần hóa và thoái vốn, bằng cách đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường minh bạch và đảm bảo công bằng trong quá trình giao dịch mua bán. Bên cạnh đó, cần tích cực và chủ động tìm kiếm và thu hút các nhà đầu tư quan tâm đến cổ phần hóa và thoái vốn. Điều này có thể thực hiện thông qua các hoạt động quảng bá, hội thảo và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào quy trình cổ phần hóa. Cuối cùng, công tác cổ phần hóa và đẩy nhanh việc thoái vốn nhà nước tại một số DNNN cần triển khai theo đúng kế hoạch đã xác định, đảm bảo tuân thủ quy trình pháp lý và các quy định liên quan; tiến độ thực hiện cần được theo dõi và đánh giá hiệu quả sau khi cổ phần hóa và thoái vốn được thực hiện.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác giải ngân vốn đầu tư công theo đúng kế hoạch

Khi đầu tư công được giải ngân theo đúng kế hoạch, nguồn vốn chi cho đầu tư phát triển được khơi thông, qua đó tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực và đảm bảo các dự án đầu tư công được triển khai một cách có hiệu quả và nhanh chóng, tránh tình trạng chậm tiến độ hoặc lãng phí nguồn lực. Hơn nữa, các dự án đầu tư công được thực hiện đúng kế hoạch sẽ góp phần tạo ra nhiều cơ hội việc làm, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, tăng cường đầu tư trong nền kinh tế. Điều này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc gia tăng tổng cầu, kích thích nền kinh tế trong nước nhanh chóng vượt qua khủng hoảng do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19. Do vậy, bên cạnh việc tăng cường khả năng lập kế hoạch, giám sát và đánh giá dự án để đảm bảo tiến độ giải ngân đúng kế hoạch, chế tài xử lý quyết liệt đối với các cơ quan, đơn vị để chậm, muộn trong phân bổ ngân sách, thì việc "tháo gỡ" các nút thắt thể chế liên quan đến hoạt động đầu tư công (chẳng hạn như: rà soát và đơn giản hóa quy trình phê duyệt và giải ngân dự án đầu tư công, cấp phê duyệt và chịu trách nhiệm…) là hết sức cần thiết. Làm tốt những việc này sẽ góp phần khơi thông nguồn vốn đầu tư công, và hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng thu và chi chuyển nguồn ngân sách, vốn xảy ra phổ biến đối với việc quản lý NSNN của các cấp ngân sách của nước ta.

Thứ năm, tiếp tục duy trì xu hướng chi NSNN theo hướng bền vững, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên, và tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển

Việc giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống (khoảng 60%), và gia tăng chi đầu tư phát triển là cũng một trong những mục tiêu đặc biệt quan trọng được nêu trong Nghị quyết số 23/2021/QH15. Thật vậy, gia tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng như giao thông, năng lượng, viễn thông, y tế, giáo dục... Đây là những yếu tố cơ bản để nâng cao năng suất, cải thiện hiệu quả sản xuất, thu hút đầu tư, tạo việc làm và đóng góp vào sự phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Bên cạnh đó, gia tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển cũng góp phần thúc đẩy phân phối kinh tế và xã hội bình đẳng hơn. Điều này có thể đạt được thông qua việc đầu tư vào các khu vực kinh tế kém phát triển, vùng nông thôn, và các khu vực đặc biệt khác để giúp cải thiện điều kiện sống và giảm bớt khoảng cách phát triển giữa các khu vực. Do vậy, để tăng cường nguồn lực cho chi đầu tư phát triển, Nhà nước cần nỗ lực rà soát và cắt giảm các khoản chi không cần thiết, sắp xếp lại DNNN hoạt động không hiệu quả, đẩy mạnh cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo lộ trình, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ để phát hiện và ngăn chặn sự lãng phí và tham nhũng trong quá trình quản lý ngân sách, và đặc biệt là đảm bảo sự minh bạch và tham gia tích cực của công chúng.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tài chính (2022), Thông tư số 78/2022/TT-BTC, ngày 26/12/2022 quy định về tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2023.

2. Chính phủ (2016), Nghị định số 163/2016/NĐ-CP, ngày 21/12/2016 quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước.

3. Ngân hàng Thế giới (2023), Nguồn dữ liệu mở, truy cập từ https://data.worldbank.org/country/vietnam?view=chart.

4. Quốc hội (2021), Nghị quyết số 23/2021/QH15, ngày 28/7/2021 về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025.

5. Tổng cục thống kê (2021), Nguyên nhân vốn đầu tư công thực hiện tháng 7/2021 giảm và giải pháp đẩy mạnh vốn đầu tư công trong các tháng cuối năm, truy cập từ https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/08/nguyen-nhan-von-dau-tu-cong-thuc-hien-thang-7-2021-giam-va-giai-phap-day-manh-von-dau-tu-cong-trong-cac-thang-cuoi-nam/.

6. Tổng cục Thống kê (2022), Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2022, truy cập từ https://www.gso.gov.vn/tin-tuc-thong-ke/2022/12/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2022/.

Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo