Quản lý nợ xấu tại một số ngân hàng thương mại và bài học kinh nghiệm


Sự tồn tại của nợ xấu không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của nền kinh tế.

Sự tồn tại của nợ xấu không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của nền kinh tế.
Sự tồn tại của nợ xấu không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của nền kinh tế.

Tại Việt Nam, nợ xấu trong thời gian qua mặc dù có xu hướng giảm, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề “nóng” cần phải được kiểm soát. Thông qua kinh nghiệm quản lý nợ xấu tại 2 ngân hàng lớn tại Việt Nam là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), nhiều bài học bổ ích được rút ra để áp dụng cho các ngân hàng thương mại trong hệ thống.

Thực trạng quản lý nợ xấu ngân hàng tại Việt Nam

Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2007 xuất phát từ cho vay thế chấp dưới chuẩn của Mỹ đã có tác động đến hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Sự tác động này ngày càng mạnh hơn theo thời gian, đặc biệt, trong giai đoạn 2008-2010, tuy nhiên đây lại là giai đoạn các ngân hàng Việt Nam loay hoay không tìm ra biện pháp khắc phục khi tỷ lệ nợ xấu có thời điểm lên cao trên mức 3%. Tình hình nợ xấu có thể xem xét theo từng giai đoạn sau:

- Giai đoạn 2006-2009: Giai đoạn này, Quốc hội, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) không có văn bản về nợ xấu cũng như quản lý nợ xấu (QLNX) một cách cụ thể. Việc phân loại nhóm nợ vẫn chủ yếu theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về việc ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng (RRTD) trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (TCTD), vốn đã quá lỗi thời và bộc lộ nhiều hạn chế. Điểm sáng trong giai đoạn này, Chính phủ ban hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm, làm cơ sở cho việc xử lý các tài sản bảo đảm của người vay vốn. Tuy nhiên, văn bản này vẫn chưa đủ mạnh để các ngân hàng thực hiện xử lý các khoản nợ xấu phát sinh.

- Giai đoạn 2010-2015: Giai đoạn này có hai văn bản luật ra đời đó là Luật TCTD và Luật NHNN. Bắt đầu từ giai đoạn này, các văn bản liên quan đến QLNX cũng được ban hành nhiều hơn, cụ thể như: Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” và Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam - VAMC"... Trong giai đoạn này, NHNN cũng ban hành hàng loạt thông tư hướng dẫn triển khai chi tiết các văn bản từ Quốc hội và Chính phủ, nhằm kiểm soát chặt tình hình nợ xấu trong hệ thống.

Quản lý nợ xấu tại một số ngân hàng thương mại và bài học kinh nghiệm - Ảnh 1

- Giai đoạn 2016 đến nay: Trong giai đoạn này bên cạnh việc tái cấu trúc các TCTD thì việc xử lý nợ xấu được đặt lên cao nhất khi hàng loạt văn bản có cụm từ “xử lý nợ xấu” được Quốc hội ban hành. Tiêu biểu là Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD được ban hành nhằm tháo gỡ các vướng mắc khó khăn pháp lý hiện hành liên quan đến xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm các khoản nợ của TCTD, tạo cơ chế xử lý đồng bộ, thúc đẩy xử lý nhanh, dứt điểm nợ xấu để các TCTD tiếp tục phát huy tốt vai trò trong sự phát triển của nền kinh tế...

Báo cáo của NHNN cho thấy, tính đến 31/1/2019 tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn hệ thống là 1,96% giảm so với mức 1,99% cuối năm 2017. Nợ ngoại bảng bao gồm nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu ở mức 5,85% giảm mạnh so với mức 10,08% cuối năm 2016 và mức 7,36% cuối năm 2017. Tốc độ tăng trưởng xử lý nợ tiếp tục được cải thiện, nhằm đạt được mục tiêu phấn đấu đến cuối năm 2017 đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng xuống dưới 2%, tỷ lệ nợ xấu và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu dưới 5%...

Kinh nghiệm quản lý nợ xấu của một số ngân hàng thương mại

BIDV

BIDV thực hiện quy trình QLNX theo 4 hoạt động như sau:

Hoạt động 1: Nhận biết nợ xấu

Hội đồng quản trị và Ban Điều hành BIDV đã ban hành nhiều quy trình, quy định về cấp tín dụng đối với từng đối tượng khách hàng, trong đó bao gồm những quy định, hướng dẫn thẩm định khách hàng, góp phần hỗ trợ cán bộ tín dụng trong công tác tiếp cận, thẩm định khách hàng và nhận biết nợ xấu.

Hoạt động 2: Đo lường nợ xấu

Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV đã đáp ứng các điều kiện về xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của NHNN. Đây là bước đi mới, nhằm tiếp cận từng bước với việc đo lường và tính toán rủi ro theo Hiệp ước Basel II (theo phương pháp tiếp cận xếp hạng nội bộ)... Ngoài ra, BIDV hiện đang sử dụng kết quả chấm điểm là một trong những tiêu chí hàng đầu để thẩm định, đánh giá khách hàng và là căn cứ để phân cấp thẩm quyền phán quyết tín dụng và xác định mức cấp tín dụng đối với khách hàng. Đối với mỗi hạng khách hàng khác nhau, chi nhánh có mức ủy quyền phê duyệt tín dụng khác nhau. Đồng thời, mức cấp tín dụng và tỷ lệ cấp tín dụng tối đa so với tài sản đảm bảo đối với mỗi khách hàng cũng được xác định dựa trên hạng tín dụng của khách hàng đó.

Hoạt động 3: Ngăn ngừa nợ xấu

Xây dựng môi trường rủi ro tín dụng (RRTD) thích hợp và quy trình cấp tín dụng lành mạnh. Đồng thời, BIDV cũng triển khai thực hiện mô hình cấp tín dụng và quản lý RRTD tập trung theo Hiệp ước Basel II. Trên giác độ quản lý RRTD và QLNX có thể thấy, mô hình tổ chức cấp tín dụng của BIDV có những bước tiến đáng kể. Từ mô hình cấp tín dụng phân tán trên cơ sở ủy quyền phán quyết tín dụng cho các chi nhánh ở mức khá cao, BIDV đã chuyển đổi mô hình tổ chức bộ máy tín dụng trong toàn hệ thống theo mô hình cấp tín dụng tập trung, đảm bảo nguyên tắc phân tách độc lập giữa bộ phận quan hệ khách hàng với bộ phận thẩm định và bộ phận phê duyệt, quyết định cấp tín dụng; quản lý thống nhất từ cấp trụ sở chính xuống chi nhánh, giảm thấp mức ủy quyền phán quyết đối với các chi nhánh...

Thành lập và phát huy vai trò của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Hiện nay, mô hình kiểm tra, kiểm soát nội bộ của BIDV được thiết lập theo chiều dọc. Tại trụ sở chính, phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ thực hiện tham mưu, giúp việc Ban lãnh đạo về công tác giám sát, kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ quy định của pháp luật và hệ thống quy chế, quy trình nghiệp vụ, quy định nội bộ nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các tồn tại trong mọi hoạt động nghiệp vụ của các phòng, ban trụ sở chính và các chi nhánh. Như vậy, mô hình kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại BIDV khá chặt chẽ, với 3 vòng kiểm soát, từ nội bộ chi nhánh đến các cấp cao hơn. Điều này giúp cho công tác quản lý RRTD, QLNX được thực hiện một cách toàn diện hơn. Thực tế cho thấy, hoạt động của các bộ phận kiểm tra trong thời gian qua khá hiệu quả, đã phát hiện nhiều trường hợp vi phạm của các đơn vị, các vi phạm có khả năng mất vốn, các rủi ro tiềm ẩn, để từ đó có biện pháp cảnh báo và xử lý tín dụng kịp thời để hạn chế RRTD, hạn chế nợ xấu.

Hoạt động 4: Xử lý nợ xấu

BIDV xác định biện pháp XLNX đối với từng khách hàng phải được thực hiện khẩn trương, đồng bộ, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, xây dựng biện pháp thu nợ xấu cụ thể của từng đơn vị. Giao chỉ tiêu thu nợ xấu cho các thành viên của Ban lãnh đạo Chi nhánh, từng phòng, từng tổ, từng cán bộ tín dụng theo thời gian cụ thể (tháng, quý, năm). Cụ thể:

- Chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận trước mắt để tăng khả năng tự chủ tài chính.

- Thực hiện cơ cấu lại nợ đối với những khách hàng có khả năng phục hồi và phát triển ổn định lâu dài nhưng gặp khó khăn tạm thời. Bám sát khách hàng, đặc biệt là các đơn vị đã cơ cấu để đôn đốc thu nợ nhằm giảm dần nợ xấu.

- Phối hợp tìm biện pháp tháo gỡ để khách hàng khắc phục khó khăn và phục hồi. Tìm biện pháp động viên khuyến khích khách hàng tích cực phối hợp giải quyết nợ xấu. Thực hiện chính sách khen thưởng thu hồi và XLNX hiệu quả, đem lại lợi ích cho BIDV.

- Thu hồi và tích cực xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ thông qua các giải pháp cụ thể cho từng đơn vị có nợ nhóm 2, nợ xấu và nợ đã xử lý rủi ro.

- Bán nợ cho VAMC, Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC) và cùng phối hợp nghiên cứu phương án thu hồi nợ xấu hiệu quả.

- Ngoài ra, để hạn chế nợ xấu tiếp tục phát sinh, BIDV thông qua các biện pháp: Đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp, thực hiện cơ cấu lại nợ đối với các doanh nghiệp (DN) gặp khó khăn tạm thời nhưng có khả năng phục hồi trong tương lại; Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, sử dụng vốn vay của khách hàng để kịp thời thu hồi nợ...

Vietcombank

Quy trình QLNX tại Vietcombank được thực hiện như sau:

Hoạt động 1: Bước nhận biết nợ xấu

Hiện nay, Vietcombank thường dựa vào thông tin về mức độ nghi ngờ về khả năng trả nợ, dựa vào thời gian quá hạn của khoản nợ. Định kỳ hàng quý, Vietcombank thực hiện rà soát, đánh giá lại việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng, theo dõi chất lượng nợ để từ đó nhận diện được nợ xấu của Ngân hàng.

Hoạt động 2: Bước đo lường nợ xấu

Trên cơ sở kết quả nhận diện, Ngân hàng tiến hành đo lường nợ xấu, đó là: mức độ rủi ro, khả năng không trả được nợ của khách hàng, đánh giá mức độ tác động của nợ xấu đến hoạt động, kết quả kinh doanh.

Quản lý nợ xấu tại một số ngân hàng thương mại và bài học kinh nghiệm - Ảnh 2

Qua bảng có thể thấy, cơ cấu các khoản nợ xấu của Vietcombank có sự dịch chuyển của các khoản nợ xấu đi từ các khoản nợ có độ rủi ro thấp (nhóm 3, nhóm 4) dần chuyển sang khoản nợ có độ rủi ro cao hơn (nhóm 5). Cụ thể, nợ nhóm 3 trong năm 2012 là lớn nhất nhưng lại có xu hướng giảm (năm 2012 là 53,9%, đến năm 2016 chỉ còn 19,6% và nợ nhóm này có xu hướng chuyển sang nhóm 4, nhóm 4 có xu hướng chuyển sang nhóm 5. Tuy nhiên, nợ nhóm 3 và nợ nhóm 5 vẫn chiếm tỷ trọng lớn, nợ nhóm 4 chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng khối lượng nợ xấu.

Hoạt động 3: Ngăn ngừa nợ xấu

Sau khi đo lường được nợ xấu để giữ nợ xấu trong phạm vi mà Ngân hàng chấp nhận được, tức để hạn chế và ngăn ngừa nợ xấu, Vietcombank đã thực hiện: (i) Xây dựng mô hình quản lý RRTD tập trung; (ii) Xây dựng chiến lược quản lý rủi ro: trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong toàn hệ thống; (iii) Thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng: bao gồm các khâu thẩm định, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay... việc thực hiện và quản lý nghiêm ngặt quy trình đã giúp cho Vietcombank phát hiện, chấn chỉnh, hạn chế và ngăn chặn kịp thời về nợ xấu, từ đó xây dựng các quy trình tín dụng sao cho hiệu quả nhất…

Hoạt động 4: Xử lý nợ xấu

Định kỳ hàng quý, Vietcombank thực hiện rà soát và đánh giá lại việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro (XLRR) trong toàn hệ thống. Việc trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro thuộc thẩm quyền của Hội đồng XLRR. Hội đồng XLRR được thành lập theo hai cấp: Cấp Trung ương (Hội đồng XLRR trung ương) tại Hội sở chính do Chủ tịch HĐQT làm Chủ tịch và cấp cơ sở (Hội đồng XLRR cơ sở) tại Chi nhánh do Giám đốc Chi nhánh làm Chủ tịch. Hội đồng XLRR Trung ương chịu trách nhiệm xem xét phê duyệt việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong toàn hệ thống Vietcombank.

Bài học rút ra cho các ngân hàng thương mại

Qua kinh nghiệm QLNX của BIDV và Vietcombank, có thể rút ra bài học cho việc QLNX tại ngân hàng thương mại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, lựa chọn mô hình xử lý nợ xấu phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng. Trong việc xử lý nợ xấu quá hạn, hầu hết các ngân hàng thương mại nói chung đều lựa chọn mô hình xử lý nợ tập trung. Mô hình QLNX tập trung có nhiều ưu điểm hơn mô hình quản lý phân tán khi mô hình quản lý phân tán chưa có sự tách biệt giữa ba chức năng (quản lý rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp); hoạt động tín dụng và QLNX được thực hiện độc lập giữa các chi nhánh, mặc dù mô hình này gọn nhẹ, đơn giản, nhưng thiếu tính chuyên môn hóa, các chính sách không theo sát với tình hình thực tế của ngân hàng. Việc lựa chọn mô hình quản lý nợ nào phải phù hợp với mỗi điều kiện của ngân hàng, nhưng khuyến nghị nên xử lý nợ theo hướng tập trung.

Thứ hai, chọn lựa hoạt động quan trọng trong quy trình QLNX. Trong mọi trường hợp thì “phòng bệnh hơn chữa bệnh“, vì thế cần tập trung nhiều vào hoạt động nhận biết nợ xấu trước khi nợ xấu xảy ra hay nói cách khác các ngân hàng phải xây dựng được hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản vay có vấn đề. Để làm được điều này, ngân hàng phải thực hiện giám sát chặt chẽ với khách hàng vay vốn, yêu cầu gửi báo cáo thường xuyên và kiểm soát dòng tiền ra vào của các khách hàng vay vốn.

Thứ ba, đối với tài sản đảm bảo nợ của ngân hàng có tỷ lệ bất động sản lớn và nhóm tài sản hình thành từ vốn vay của các dự án bất động sản, dự án sản xuất công nghiệp, dự án BT, BOT giá trị rất lớn, thường rất khó thanh khoản, ảnh hưởng đến thời gian, giá trị bị suy giảm nhiều, khó xử lý thu hồi được nợ.

Thứ tư, đối với bán nợ cho VAMC và DATC: Nợ xấu đã bán cho VAMC, DATC thực chất chỉ xử lý về mặt kỹ thuật hạch toán và giãn thời gian trích dự phòng chứ chưa giải quyết được bản chất nợ xấu. Mặt khác, sau khi mua nợ, hầu hết toàn bộ quá trình tiếp theo như việc thu hồi nợ, xử lý tài sản... vẫn được VAMC ủy quyền cho ngân hàng thực hiện.

Thứ năm, nguyên nhân của nợ xấu một phần lớn do chất lượng thẩm định cho vay chưa đảm bảo, hệ thống quản trị RRTD chưa đáp ứng, kiểm soát thiếu chặt chẽ, việc đánh giá xếp hạng tín dụng chưa phù hợp theo đối tượng khách hàng. Vì vậy, ngân hàng luôn cảnh giác với những hạn chế các nguyên nhân này.

Thứ sáu, nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ; phát triển và quản lý có hiệu quả đội ngũ cán bộ ngân hàng, đặc biệt là nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định tín dụng và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng, luôn là yếu tố quan trọng để hạn chế và quản lý tốt nợ xấu.

Thứ bảy, cần minh bạch nợ xấu và tuân thủ các tiêu chuẩn xác định nợ xấu. Một số ngân hàng thương mại chưa tuân thủ triệt để tiêu chuẩn phân loại nợ xấu, chưa minh bạch về nợ xấu, tỷ lệ báo cáo nợ xấu nhỏ hơn rất nhiều so với Kiểm toán Nhà nước. Vì vậy, nợ xấu phải được ghi nhận đầy đủ và kịp thời, phải được phân loại chính xác, từ đó xác định biện pháp và mục đích quản lý và xử lý nợ xấu phù hợp.

Thứ tám, tăng cường công tác thanh tra, giám sát: Hệ thống thanh tra, giám sát nợ xấu chưa được thường xuyên, chưa sâu, rộng đối với các dự án có số vốn lớn và rất phức tạp, môi trường hoạt động có áp dụng công nghệ thông tin cao nhưng trang bị kiến thức và công nghệ cho đội ngũ thanh tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ còn chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu. Do đó, để ngăn chặn tình trạng nợ xấu phát sinh cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát.

Thứ chín, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và ban hành Luật Đăng ký tài sản, Nghị định về giao dịch bảo đảm… Văn phòng Đăng ký đất đai, Tài nguyên và Môi trường thực hiện đúng quy định của pháp luật về đăng ký sang tên tài sản, đảm bảo quyền của các chủ sở hữu khoản nợ trong việc trực tiếp phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.

Thứ mười, nên nghiên cứu thành lập sàn giao dịch mua bán nợ tập trung; phát triển thị trường thứ cấp, tăng tính thanh khoản…

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng;

2. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 về việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”;

3. Chính phủ (2013), Nghị định số 53/2013/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC;

4. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 về việc phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành lập VAMC”;

5. BIDV, Báo cáo tài chính giai đoạn 2013-2017;

6. Vietcombank, Báo cáo tài chính giai đoạn 2013-2017.