Quản lý rủi ro tác nghiệp tại các ngân hàng thương mại
Rủi ro tác nghiệp tồn tại trong hầu hết các bộ phận của ngân hàng có thực hiện nghiệp vụ giao dịch kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc các hoạt động chấp nhận rủi ro.
Để tạo điều kiện cho quản lý rủi ro tác nghiệp hoạt động có hiệu quả mà vẫn đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính, cần phải có hệ thống luật pháp chặt chẽ quy định cụ thể các chính sách về rủi ro tác nghiệp, nhằm đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, tạo điều kiện cho thị trường vận hành theo khuôn khổ pháp luật.
Rủi ro tác nghiệp trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Theo Hiệp ước vốn Basel II: “Rủi ro tác nghiệp (RRTN) là nguy cơ xảy ra tổn thất trực tiếp hay gián tiếp do các quy trình, con người và hệ thống nội bộ không đạt yêu cầu hoặc thất bại hay do các sự kiện bên ngoài. RRTN bao gồm cả rủi ro pháp lý nhưng loại trừ rủi ro chiến lược và rủi ro uy tín”.
Như vậy, RRTN là rủi ro phát sinh do yếu tố con người, chẳng hạn như gian lận của nhân viên ngân hàng, lỗi cẩu thả, sự yếu kém trong hệ thống công nghệ thông tin do lỗi hệ thống hoặc mất điện, sự thiếu chặt chẽ trong quy trình nghiệp vụ hoặc các lý do khác dẫn đến sai sót ở một ngân hàng mà không thể phân loại vào các rủi ro khác. RRTN có thể dẫn đến những hậu quả đối với các hoạt động nghiệp vụ, cụ thể:
- Đối với hoạt động marketing và bán hàng: RRTN có thể khiến ngân hàng rơi vào tình trạng, khi cung cấp các sản phẩm mới do không áp dụng đúng các thủ tục phê duyệt sản phẩm mới.
- Đối với hoạt động thanh toán: Hậu quả mà ngân hàng phải gánh chịu có thể là không thanh toán được theo yêu cầu của khách hàng hoặc thanh toán nhầm đối tượng thụ hưởng.
- Đối với lĩnh vực công nghệ thông tin: Hậu quả mà ngân hàng phải gánh chịu có thể là tình trạng mất kiểm soát hệ thống hoặc hệ thống cơ sở dữ liệu ngừng hoạt động.
- Đối với hoạt động tài chính: Hậu quả của RRTN có thể là việc định giá tài sản sai, các báo cáo lãi lỗ không hoàn chỉnh, các khoản mục kế toán không được đối chiếu.
- Đối với hoạt động quản lý nhân sự: Hậu quả của RRTN có thể là hành vi vi phạm pháp luật trong vấn đề kết thúc hợp đồng lao động…
- Đối với uy tín của ngân hàng: Đối xử với khách hàng không tốt dẫn tới mất khách hàng hoặc khách hàng nhận thức không tốt về ngân hàng, từ đó dẫn đến hậu quả làm mất vốn hoặc làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Quản lý rủi ro tác nghiệp đối với các ngân hàng thương mại
Quản lý của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với hoạt động rủi ro của ngân hàng thương mại (NHTM) là sự tác động của định hướng, có mục đích, có kế hoạch của NHNN đối với các rủi ro của ngân hàng nhằm kiểm soát và kịp thời đưa ra chính sách can thiệp để có thể giúp các chi nhánh ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn trong kinh doanh.
Quản lý của NHNN đối với hoạt động RRTN của các NHTM bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống các chính sách, phương pháp quản lý của NHNN đối với RRTN của các NHTM.
Để tạo điều kiện cho quản lý RRTN hoạt động có hiệu quả mà vẫn đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính, cần phải có hệ thống luật pháp chặc chẽ và có các văn bản pháp lý quy định hướng dẫn cụ thể các chính sách về RRTN, nhằm đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, tạo điều kiên cho thị trường vận hành theo khuôn khổ pháp luật.
Đầu năm 2018, NHNN có Văn bản số 1126/NHNN-TTGSNH ngày 23/2/2018 (sau khi xảy ra vụ việc mất tiền gửi hàng trăm triệu đồng của khách hàng tại một NHTM cổ phần), trong đó đưa ra 7 yêu cầu đề nghị các ngân hàng thực hiện để đảm bảo an toàn giao dịch tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng, tập trung vào các nhóm giải pháp về công nghệ, quy định/quy trình, cơ cấu tổ chức, công tác cán bộ, truyền thông/thông tin tới khách hàng, tương tác với NHNN và các cơ quan chức năng khi phát sinh vụ việc sai phạm.
Tại Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/05/2018 về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, NHNN yêu cầu các NHTM phải nhận diện, đo lường, theo dõi và kiểm soát đầy đủ rủi ro hoạt động (bao gồm rủi ro gian lận) trong tất cả các sản phẩm, hoạt động kinh doanh, quy trình nghiệp vụ, hệ thống công nghệ thông tin và các hệ thống quản lý.
Như vậy, việc xây dựng chính sách, phương pháp quản lý thông qua các công cụ như luật, chế tài, định chế… đã làm cho công tác quản lý RRTN của NHNN với các NHTM trở nên khoa học chặt chẽ hơn, từ đó giúp giảm thiểu nguy cơ các tác động và biểu hiện của các loại RRTN.
Thứ hai, tổ chức thực hiện quản lý của NHNN đối với RRTN của các NHTM.
Về xác định RRTN: Có thể sắp xếp các dấu hiệu của rủi ro theo các nhóm sau: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng; Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng; Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh; Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật thương mại.
Về đo lường RRTN: Đo lường RRTN là việc xác định mức độ rủi ro của các loại RRTN. RRTN là loại rủi ro rất khó nhận biế, dẫn tới việc đo lường cũng rất khó khăn. Có 2 phương pháp đo lường thường được sử dụng là phương pháp định tính và phương pháp định lượng.
Về đánh giá RRTN: Thực hiện đánh giá RRTN qua việc tính toán quy mô, tần suất, cơ cấu các loại RRTN sau khi được cán bộ ngân hàng phân loại. Mục đích của đánh giá RRTN là giúp cho bộ máy quản lý rủi ro nắm được tình trạng RRTN của ngân hàng theo thời gian.
Về quản lý RRTN: Trên cơ sở kết quả của quá trình nhận diện và đo lường rủi ro, NHTM cần tiến hành các biện pháp quản lý với cách thức hiệu quả. Trước hết, ngân hàng cần phải làm là xác định rõ trách nhiệm của mình đối với việc quản trị RRTN. Đặc biệt, các nhân viên ngân hàng là những người cần hiểu rõ về loại rủi ro này, sự thiếu trách nhiệm của họ sẽ dẫn tới những hậu quả khó lường.
Thứ ba, giám sát, thanh tra và kiểm tra, kiểm soát RRTN của các NHTM và xử lý vi phạm đối với rủi ro thanh khoản của các NHTM.
Về giám sát RRTN: Ban điều hành quản lý RRTN phải đảm bảo các thông tin quản lý rủi ro sẽ được thể hiện bằng hệ thống các báo cáo, được lập bởi những người có trách nhiệm gửi tới một cách kịp thời. Nội dung báo cáo gồm các thông tin sau: RRTN nghiêm trọng gặp phải; những sự cố và hậu quả rủi ro cùng với những dự tính để khắc phục; sự hiệu quả của những hành động được đề ra; các chi tiết của kế hoạch hình thành chuẩn bị để ghi nhận bất kỳ rủi ro nào khi phát sinh.
Về thanh tra RRTN: Thanh tra RRTN là hoạt động kiểm tra, xem xét, đánh giá, xử lý của NHNN với các RRTN ở các NHTM nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, chính sách chế độ của Nhà nước và các quy định của ngân hàng.
Về kiểm tra RRTN: Để nâng cao sự phối hợp giữa việc thực hiện những mục tiêu của ngân hàng và việc kiểm tra mức độ RRTN, ngân hàng cần phải xây dựng một hội đồng kiểm tra và quy chế về chính sách kiểm tra rủi ro. Việc thực hiện giám sát các chương trình kiểm tra RRTN cho thấy, để nâng cao tính hiệu quả của các chương trình kiểm tra RRTN đòi hỏi việc xây dựng những tiêu chuẩn đối với các chương trình này, trong đó bao gồm việc lựa chọn và phân tích thông tin.
Về kiểm soát RRTN: Mục tiêu của kiểm soát RRTN là nhằm: Cải tiến khả năng phát hiện sớm các rủi ro chưa được phát hiện, chưa được kiểm soát hoặc đang bị coi nhẹ; Đánh giá tốt hơn khả năng chấp nhận rủi ro đã được phát hiện; Xây dựng các biện pháp kiểm soát thay thế có hiệu quả hơn đối với các rủi ro không thể chấp nhận; Triển khai sớm hơn và tốt hơn các hành động nhằm giảm nhẹ rủi ro và các biện pháp để tránh tổn thất.
Về xử lý vi phạm đối với RRTN của các NHTM: Vai trò của công tác giám sát hệ thống NHTM là rất quan trọng. Thực hiện giám sát thường xuyên sẽ giúp NHNN sớm phát hiện được trường hợp các NHTM đang có nguy cơ xảy ra rủi ro thanh khoản. Từ đó, NHNN có thể áp dụng các chế tài chấn chỉnh ngay từ thời điểm phát sinh để tránh những rủi ro chung cho hệ thống.
Thứ tư, công cụ quản lý của NHNN đối với RRTN của NHTM.
Về cơ chế, chính sách: NHNN quản lý hoạt động RRTN dựa vào các văn bản, luật được Nhà nước, Quốc hội ban hành; các NHNN cấp tỉnh áp dụng văn bản, thông tư… để quản lý hoạt động giao dịch của các NHTM trên địa bàn quản lý
Về phương tiện và nguồn thông tin thực hiện quản lý: Sử dụng các phương tiện hệ thống thông tin trong phòng ngừa rủi ro của NHTM. Các nguồn thông tin đa dạng: Khách hàng, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh, tổ chức tư vấn hoặc tổ chức cung cấp thông tin chuyên nghiệp, phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan quản lý nhà nước các cấp...
Về cơ chế kiểm soát: Các NHNN trên địa bàn cấp tỉnh sẽ thực hiện cơ chế kiểm soát RRTN của NHTM dựa trên thực hiện kiểm soát thông qua thanh tra giám sát NHNN và bộ phận quản lý rủi ro tại các NHTM. Phương thức kiểm soát được thực hiện chủ yếu qua hệ thống các văn bản, các báo cáo giám sát từ xa của cơ quan thanh tra NHNN
Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động rủi ro tác nghiệp của các ngân hàng thương mại
Để nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động RRTN của các NHTM, các giải pháp được đề xuất thực hiện gồm:
Thứ nhất, NHNN chỉ đạo, theo dõi, giám sát các NHTM đảm bảo thực hiện thành công các nguyên tắc vàng về quản lý RRTN như Ủy ban Basel đã đưa ra.
Thứ hai, xây dựng các nội dung nguyên tắc về quản lý RRTN trong toàn hệ thống ngân hàng, lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên để thiết lập các chốt kiểm soát về RRTN. Tất cả các nhân viên trong ngân hàng cần được đào tạo để hiểu biết và tham gia tự xác định RRTN – xác định nguyên nhân, đánh giá các rủi ro hiện có trong tất cả sản phẩm, hoạt động của ngân hàng.
Thứ ba, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đo lường rủi ro, định lượng hóa RRTN. Kết hợp các chỉ tiêu định tính (tự đánh giá, kiểm tra) và các chỉ tiêu định lượng và tính toán khả năng xảy ra rủi ro.
Thứ tư, xây dựng ngân hàng dữ liệu về RRTN và sử dụng công nghệ hiện đại trong phân tích, xử lý RRTN. Các NHTM cần xây dựng các quy trình hướng dẫn để thu thập thêm các thông tin tổn thất.
Thứ năm, hạn chế tối đa nguyên nhân gây ra RRTN từ các yếu tố bên trong NHTM như con người, quy trình, hệ thống. Các chính sách quản lý nhân lực cần hướng tới mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đạo đức nghề nghiệp tốt; các quy trình nghiệp vụ cũng cần được rà soát, hoàn thiện thường xuyên.
Thứ sáu, hạn chế tối đa các yếu tố tác động đến RRTN từ bên ngoài, xây dựng các phương án, đưa ra tình huống để sẵn sàng đối phó cũng như khắc phục kịp thời hậu quả do các lỗi truyền thông, thiên tai, hoả hoạn gây ra RRTN.
Giải pháp cơ bản cho việc đưa ra quyết định lựa chọn thay thế là: công nhận rủi ro hiện hữu, chuyển đổi rủi ro cho bên thứ ba (ví dụ thông qua bảo hiểm); tránh rủi ro bằng cách ngừng các hoạt động kinh doanh; giảm thiểu rủi ro RRTN bằng đo lường các rủi ro khác.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010;
2. Hoàng Văn Hải (2013), Giáo trình Quản lý chiến lược, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội;
3. Nguyễn Văn Tiến (2012), Giáo trình Quản lý ngân hàng thương mại, NXB Thống kê;
4. Đặng Công Hoàn (2015), “Phát triển Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt cho khu vực dân cư tại Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội;
5. Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Đoàn Thị Thu Hà (2008), Giáo trình Khoa học Quản lý, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.