Sản xuất công nghiệp 10 tháng đầu năm 2018
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng Mười ước tính tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 9,5%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,9%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,5%.
Tính chung 10 tháng năm 2018, IIP ước tính tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn so với mức tăng 9,6% của cùng kỳ năm 2017. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 12,7%, đóng góp 9,8 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,6%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,6%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 2,6%, làm giảm 0,4 điểm phần trăm mức tăng chung.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 10 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 58%; sản xuất kim loại tăng 21,9%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 21,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 15,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 13,4%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 13,2%; dệt và sản xuất giấy, sản phẩm từ giấy cùng tăng 13%; sản xuất các sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học tăng 12,1%.
Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu tăng 3,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 3,2%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 3,1%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 6,3% (khai thác dầu thô giảm 12,1% và khai thác khí đốt tự nhiên bằng cùng kỳ năm trước); khai khoáng khác (đá, cát, sỏi...) giảm 2,3%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 10 tháng năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Xăng, dầu tăng 47,4%; sắt, thép thô tăng 40,5%; ti vi tăng 26,3%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 24,6%; Alumin tăng 23,5%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo tăng 21,4%; linh kiện điện thoại tăng 18,8%; thức ăn cho thủy sản tăng 17,2%.
Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Phân hỗn hợp NPK tăng 2,6%; thức ăn cho gia súc tăng 1,2%; sữa tươi tăng 0,7%; phân u rê tăng 0,3%; khí đốt thiên nhiên dạng khí bằng cùng kỳ năm trước; điện thoại di động giảm 3% (điện thoại thông minh giảm 5,3%); dầu thô khai thác giảm 12% (cùng kỳ năm 2017 giảm 10,8%).
Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2018 của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó Hà Tĩnh là địa phương có tốc độ tăng cao nhất với mức 105,6% do có sự đóng góp của Tập đoàn Formosa, tiếp theo là Thanh Hóa tăng 30,3% chủ yếu do Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn mới đi vào sản xuất từ giữa năm 2018, Bà Rịa - Vũng Tàu là địa phương có mức tăng thấp nhất cả nước với 1,3% do khai thác dầu thô giảm.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Phòng tăng 25,6%; Vĩnh Phúc tăng 14,6%; Thái Nguyên tăng 12,2%; Bắc Ninh tăng 11,9%; Quảng Nam tăng 9,5%; Bình Dương tăng 9,4%; Hải Dương tăng 9%; Quảng Ninh tăng 8,8%; Đồng Nai tăng 8,7%; Cần Thơ tăng 8,1%; TP. Hồ Chí Minh tăng 7,9%; Đà Nẵng tăng 7,7%; Hà Nội tăng 7,3%.
Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/10/2018 tăng 3,1% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 1,1%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 3,2%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 3,7%.
Tại thời điểm trên, lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 1,5% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 3,4%; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 0,2%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,4%.
Lao động của các doanh nghiệp tại thời điểm 1/10/2018 so với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Phòng tăng 15,7%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 5,8%; Hà Nội tăng 5,7%; Đồng Nai tăng 5,2%; Quảng Ninh tăng 2,7%; Quảng Nam tăng 1,8%; Hải Dương tăng 1,5%; Vĩnh Phúc tăng 0,8%; Cần Thơ tăng 0,6%; TP. Hồ Chí Minh và Bình Dương cùng tăng 0,4%; Thái Nguyên bằng cùng kỳ năm trước; Đà Nẵng giảm 6,4%; Bắc Ninh giảm 7,9%.