Tác động của các FTA thế hệ mới tới tăng trưởng kinh tế - xã hội Việt Nam
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; tham gia đàm phán và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới. Việc ký kết và tham gia các FTA nói chung và các FTA thế hệ mới nói riêng đã, đang tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kinh tế - xã hội Việt Nam trên nhiều khía cạnh. Bài viết nghiên cứu và phân tích về những tác động này, đề xuất giải pháp nhằm thực thi hiệu quả cam kết quốc tế thông qua các FTA của Việt Nam.
Những tác động tích cực
Sau hơn 10 năm tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đến nay, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phám 17 hiệp định FTA song phương và đa phương. Trong số đó, 12 FTA đã có hiệu lực và đang thực thi. Với việc đàm phán, ký kết hàng loạt FTA, nhất là các FTA thế hệ mới (như: FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu; Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên Đại Tây Dương; Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương; FTA ASEAN + 1; FTA Australia - Hoa Kỳ), Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, khẳng định vai trò và vị trí trên trường quốc tế. Theo đánh giá, các FTA mà Việt Nam tham gia ký kết đã tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế - xã hội (KT-XH) đất nước; kỳ vọng đem lại nhiều cơ hội hợp tác về vốn, phương thức quản lý mới, hiện đại và hiệu quả hơn cho doanh nghiệp (DN) Việt Nam.
Tác động đối với chính trị, văn hóa, xã hội
Trong bối cảnh hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hóa, hợp tác và liên kết kinh tế đa tầng tiếp tục được thúc đẩy thì việc đàm phán, ký kết và thực thi các FTA, nhất là các FTA thế hệ mới đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch kinh tế, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho xã hội Việt Nam (GDP bình quân đầu người tính theo giá hiện hành, đã tăng từ 1.273 USD/người năm 2010 lên 2.587 USD/người năm 2018). Các thỏa thuận về lao động và công đoàn trong các FTA thế hệ mới cũng góp phần nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện hỗ trợ cho người lao động Việt Nam gia tăng thu nhập…
Tham gia ký kết các FTA thế hệ mới, đã nâng cao đáng kể năng lực và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam từng bước tham gia định hình và dẫn dắt “luật chơi” ở mức độ nhất định; quảng bá hình ảnh, kết nối các giá trị văn hóa, chính trị và xã hội của Việt Nam với khu vực và thế giới. Các FTA thế hệ mới đã tạo ra động lực và “sức ép” mới để Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước theo đó cũng dần được hoàn thiện, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam không ngừng được nâng cao; hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia dần hoàn thiện, phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn chung của quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, DN và sản phẩm.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, FTA thế hệ mới đòi hỏi các thành viên, trong đó có Việt Nam phải thực hiện rà soát, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; Cải thiện môi trường pháp lý và kinh doanh như: Bảo vệ nhà đầu tư trong nước và nước ngoài khỏi sự can thiệp trái pháp luật; Tạo “sân chơi” công bằng cho DN nhà nước và DN tư nhân; Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong kinh doanh; Thuận lợi hóa việc công nhận các tiêu chuẩn sản phẩm; Mở cửa thị trường mua sắm công cho các DN có vốn đầu tư từ các thành viên của FTA; Minh bạch hóa hoạt động của cơ quan nhà nước…
Đặc biệt, với tiêu chuẩn rất cao về quản trị minh bạch và hành xử công bằng, các FTA thế hệ mới giúp Việt Nam kiện toàn, cải thiện bộ máy quản lý nhà nước theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo phát triển KT-XH bền vững.
Tác động đến phát triển kinh tế
Các FTA thế hệ mới góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu trên thế giới; tạo thuận lợi cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam bước lên "nấc thang" cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế. Mặc dù, trong bối cảnh chính trị thế giới có những diễn biến khó lường, tác động đến kinh tế - thương mại thế giới, tuy nhiên tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018 (theo giá so sánh) vẫn duy trì ở mức cao, cụ thể: Năm 2011 đạt 6,24%, năm 2015 tăng lên 6,68% (2011 - 2015, bình quân tăng 5,91%), năm 2016 tăng 6,21%, năm 2018 tăng 7,08%; Quý II/2019 ước tăng 6,71% so với cùng kỳ năm trước, 6 tháng đầu năm 2019 đạt ở mức 6,76%. Con số này tuy thấp hơn mức tăng của 6 tháng đầu năm 2018 nhưng vẫn cao hơn mức tăng của 6 tháng các năm trong giai đoạn 2011 - 2017. Kết quả này góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng tích cực.
Các FTA thế hệ mới góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu trên thế giới; tạo thuận lợi cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam bước lên "nấc thang" cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế của đất nước.
Cùng với đó, các FTA thế hệ mới còn góp phần quan trọng, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút được nhiều tập đoàn, nhà đầu tư lớn, có tiềm năng từ các nước trong khu vực và thế giới đến Việt Nam; Góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam chuyển từ sản xuất xuất khẩu các sản phẩm thô và thủ công sang giai đoạn chế biến tinh với giá trị gia tăng cao hơn. Theo thống kê, lũy kế đến hết năm 2018, Việt Nam đã thu hút được 27.353 án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), với tổng vốn đăng ký khoảng 340 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án FDI ước đạt 191,4 tỷ USD, bằng 56,2% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực. Riêng 7 tháng đầu năm 2019, Việt Nam đã thu hút 2.064 dự án cấp phép mới, với số vốn đăng ký đạt 8,27 tỷ USD, tăng 24,6% về số dự án và giảm 37,4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018. Tính theo tỷ lệ % GDP, vốn FDI vào Việt Nam đã vượt Trung Quốc, Ấn Ðộ và các nước ASEAN.
Không chỉ vậy, các FTA thế hệ mới được coi như là một chiến lược mang tầm dài hạn nhằm giúp DN Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh. Khảo sát cho thấy, tất cả các thị trường mà Việt Nam ký kết FTA (gồm cả các FTA thế hệ mới) đều ghi nhận sự tăng trưởng vượt trội, nhất là thị phần xuất khẩu tại các thị trường trọng điểm. Xuất khẩu trong giai đoạn 2011-2018 đã tăng gấp 2,51 lần, từ 96,91 tỷ USD năm 2011 lên 243,48 tỷ USD vào năm 2018. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 2018 so với GDP đạt 208,6%, điều này chứng tỏ Việt Nam đã khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước, đồng thời tận dụng được cơ hội của hội nhập để mở rộng quy mô xuất khẩu, tiếp cận thị trường quốc tế.
Ngoài thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu, các FTA thế hệ mới còn góp phần giúp Việt Nam phát triển thương mại nội địa. Đóng góp của thương mại trong nước vào tăng trưởng GDP ngày càng cao, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam, đảm bảo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Giá trị tăng thêm ngành Thương mại trong nước ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong GDP cả nước, tăng từ 8% năm 2010 lên 10,15% năm 2015 và năm 2017 là 10,71%, tuy nhiên, năm 2018 giảm còn khoảng 10,51%.
Các FTA thế hệ mới đã tạo ra động lực và “sức ép” mới để Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước theo đó cũng dần được hoàn thiện, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế.
Hoạt động lưu thông hàng hóa trong nước cũng liên tục gia tăng về quy mô. Giai đoạn 2011 - 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng từ 1.677,3 nghìn tỷ đồng năm 2010 lên 4.395,7 nghìn tỷ đồng năm 2018.
Kết cấu hạ tầng thương mại phát triển cả về số lượng lẫn loại hình, đan xen giữa truyền thống và hiện đại, đặc biệt là ở các khu vực đô thị. Hình thức bán hàng, phương thức kinh doanh thương mại và dịch vụ trên thị trường trong nước đã phát triển mạnh, ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Thương mại điện tử đang dần trở thành kênh phân phối quan trọng. Các cam kết về dịch vụ - đầu tư, mua sắm chính phủ cũng như những quy định cụ thể về mở cửa thị trường đã tạo cơ hội cho DN, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của các thành viên trong FTA thuận lợi hơn trong tiếp cận thị trường gần 100 triệu dân của Việt Nam, đổi lại người tiêu dùng Việt Nam cũng được tiếp cận sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao…
Một số tác động tiêu cực
Tác động đối với hệ thống chính trị và phát triển xã hội
Có thể khẳng định, các FTA thế hệ mới tiềm ẩn nhiều hệ quả không chỉ đối với hệ thống pháp luật mà còn liên quan tới các chính sách xã hội, văn hoá, kinh tế của Việt Nam. Các tiêu chuẩn cao về quản trị minh bạch và hành xử công bằng của bộ máy nhà nước đặt ra không ít thách thức đối với cơ quan quản lý nhà nước trong việc cân bằng giữa thương mại quốc tế với những vấn đề vốn được coi là “phi thương mại”…
Về mặt xã hội, khi Việt Nam tham gia các FTA, cạnh tranh tăng lên có thể làm cho DN nhà nước, cũng như nhiều DN có công nghệ sản xuất lạc hậu rơi vào tình trạng khó khăn, theo đó khả năng thất nghiệp sẽ xảy ra trong một bộ phận người lao động. Hàng rào thuế quan tuy được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật của Việt Nam hiện nay còn ít, không hiệu quả, nguy cơ Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng rất lớn, trong khi đó, sản xuất trong nước lại không được bảo vệ, làm gia tăng những nguy cơ về ô nhiễm môi trường và các vấn đề xã hội, an ninh (đặc biệt là an ninh mạng)…
Bên cạnh đó, các FTA thế hệ mới có thể gây nên nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, ngoài phân phối theo lao động, còn phân phối theo vốn đóng góp và hiệu quả kinh tế… Điều này dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng, tình trạng bất công bằng vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng thẳng, xung đột xã hội và đẩy các quan hệ xã hội tới chỗ xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội…
Tác động đối với phát triển kinh tế
Thời gian để triển khai và thực thi cam kết tại các FTA thế hệ mới đang là lực cản lớn đối với Việt Nam. Với FTA thông thường, tổng thời gian thực thi tất cả cam kết kéo dài 10 năm. Với các FTA thế hệ mới, Việt Nam sẽ phải thực hiện cam kết trong vòng 5 - 7 năm; trong đó, nhiều điều khoản phải thực hiện ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, nhiều thỏa thuận sẽ phải thực hiện sau 2 - 3 năm. Trình độ phát triển của Việt Nam đang ở mức trung bình và thấp. Với mức độ mở cửa tự do hóa sâu hơn, các lĩnh vực còn thiếu, còn yếu của Việt Nam như: Giao thông vận tải, đào tạo nguồn nhân lực, lao động kỹ thuật có tay nghề cao… sẽ khó có thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn khi phân luồng đầu tư từ nước ngoài, với dòng vốn mạnh mẽ đổ vào trong nước, cạnh tranh cao sẽ gây sức ép đối với DN.
Áp lực của việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến các ngành nghề trong nước. Nhiều sản phẩm truyền thống của Việt Nam chưa được đăng ký theo Luật Sở hữu trí tuệ quốc tế, nguy cơ mất thương hiệu, cạnh tranh yếu trên thị trường cả trong và ngoài nước là điều chắc chắn. Các ngành kinh tế được dự báo sẽ chịu lép vế khi Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới gồm: ngành cơ khí, chế tạo; nông sản (một số sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm, chăn nuôi…); thủy sản và một số lĩnh vực trong ngành dịch vụ (hậu cần thương mại, phân phối bản lẻ…).
Việt Nam mặc dù đã tận dụng được cơ hội của hội nhập để mở rộng quy mô xuất khẩu, tiếp cận thị trường quốc tế, song tỷ lệ xuất khẩu trên GDP cao cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới, điều này tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn khi thị trường thế giới có biến động. Các hàng rào kỹ thuật và hệ thống vệ sinh, kiểm dịch thực vật khắt khe sẽ tạo rào cản khiến hàng hóa Việt Nam khó thâm nhập vào thị trường các nước đối tác...
Biến thách thức thành cơ hội cho tăng trưởng và phát triển bền vững
Qua phân tích, làm rõ những cơ hội, thách thức đối với Việt Nam trong quá trình tham gia vào các hiệp định FTA thế hệ mới, bài viết đề xuất một số giải pháp và kiến nghị sau:
Một số giải pháp
Một là, đồng bộ về chính sách và thống nhất về hành động từ trung ương đến địa phương, giữa các bộ, ngành, hiệp hội, DN; Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, hấp dẫn và đầu tư thực sự minh bạch, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh cho phát triển KT-XH.
Hai là, đổi mới cách thức triển khai thực hiện, nâng cao hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các ban chỉ đạo liên ngành với nhau và giữa các bộ/ngành/địa phương; Kịp thời tháo gỡ các vướng mắc của DN về các vấn đề liên quan đến chính sách và thực thi cam kết.
Ba là, nâng cao hiểu biết và vận dụng hiệu quả các luật lệ, quy định về kinh tế, thương mại cũng như tập quán của các thị trường có FTA với Việt Nam, để bảo vệ lợi ích sản phẩm, DN quốc gia trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại.
Bốn là, chủ động nắm vững thời cơ, nghiên cứu cảnh báo sớm, có sự chuẩn bị kỹ càng trong thực hiện và đón đầu những cơ hội, hạn chế những thách thức; Chuẩn bị các kịch bản để ứng phó các nguy cơ tranh chấp thương mại quốc tế.
Năm là, đổi mới phương pháp, nâng cao hiệu quả và chất lượng các hoạt động thông tin, tuyên truyền; hướng dẫn, phổ biến, cập nhật tình hình thực thi cam kết trong các FTA thế hệ mới, để người dân, DN nhận thức đầy đủ hơn, từ đó có thể chủ động ứng phó và vượt qua các thách thức, tận dụng tối đa các cơ hội.
Đề xuất, kiến nghị
- Đối với Chính phủ: Tăng cường các chính sách hỗ trợ cho DN nhỏ và vừa, tháo gỡ và hỗ trợ phát triển thương mại; Đẩy mạnh cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính; tạo sự liên thông giữa các bộ, ngành, địa phương, nâng cao tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh. Bên cạnh đó, nghiên cứu hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cường công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả của thu hút đầu tư nước ngoài; Xây dựng các biện pháp bảo vệ DN nội địa theo hướng trọng tâm vào việc tạo lập các “hàng rào kỹ thuật”.
- Đối với DN: Chủ động nghiên cứu, tìm hiểu các nội dung, quy tắc nội khối để có thể tận dụng tối đa những cơ hội đến từ các FTA thế hệ mới; Chuẩn bị và nâng cao khả năng xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm chính phủ, DN nhà nước; Tăng cường kết nối và hợp tác với các DN nước ngoài để tận dụng công nghệ, quản lý và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Cùng với đó, các DN cần chuẩn bị tâm thế, sẵn sàng vượt qua các hàng rào kỹ thuật về kiểm dịch, môi trường, an toàn thực phẩm, lao động và công đoàn… Nhanh chóng triển khai thực hiện việc xác định và hoàn thiện chỉ dẫn địa lý, nguồn gốc xuất xứ các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam để tận dụng cơ hội thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr. 267;
2. Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 2011-2020;
3. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020; NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011;
4. Hoàng Xuân Hòa (2019), Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sau 5 năm nhìn lại, Văn phòng Chính phủ, tapchicongsan.org.vn;
5. Minh Phương (2019), Việt Nam trước các FTA thế hệ mới: Hành động để biến thách thức thành cơ hội, daidoanket.vn.