Tín hiệu sáng từ thị trường có FTA
Những tín hiệu tốt trong hoạt động xuất khẩu vào các thị trường mà Việt Nam có ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) chính là động lực để các doanh nghiệp Việt tiếp tục cải thiện năng lực sản xuất chế biến.
Nhận định về viễn cảnh kinh tế Việt Nam khá lạc quan trong thời gian tới, ông Mohamed Mudaaser, cố vấn hoạt động vốn của công ty Price Water Cooper Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh đến xu hướng chuyển dịch vào công nghiệp chế biến, cũng như tận dụng các cơ hội mở ra từ những FTA mà Việt Nam tham gia.
Hiệu quả bước đầu
Theo ông Pranay Verma, Đại sứ Ấn Độ tại Việt Nam, chỉ tính riêng trong tháng 8 này đã có tới 3 đoàn doanh nghiệp (DN) của Ấn Độ đến TP. Hồ Chí Minh nhằm tìm kiếm các đối tác xuất nhập khẩu khi mà Việt Nam đang có những lợi thế lớn với các FTA.
Đơn cử như với Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN – Ấn Độ (AIFTA) mà Việt Nam đang tham gia, chia sẻ tại Diễn đàn DN Việt Nam – Ấn Độ tổ chức ở Tp.HCM ngày 21/8, ông Võ Tân Thành, Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Ấn Độ trong 2 năm trở lại đây tăng trưởng rất mạnh.
“Nếu như các năm trước, trong giao thương với Ấn Độ, Việt Nam luôn nhập siêu rất lớn. Nhưng 2 năm gần đây, xuất khẩu (XK) của Việt Nam sang Ấn Độ tăng mạnh và hiện đã xuất siêu hơn 2 tỷ USD. Một phần nhờ các DN Việt năng động, tích cực mở rộng, đẩy mạnh thị trường XK, một phần nhờ vào AIFTA”, ông Thành cho biết.
Theo Phó chủ tịch VCCI, AIFTA đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam XK sang Ấn Độ khi mà việc ưu đãi thuế suất nhập khẩu là một trong những yếu tố quan trọng.
Không chỉ với Ấn Độ, số liệu thống kê mới đây từ Tổng cục Hải quan cho thấy trong 7 tháng đầu năm nay, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với châu Á tiếp tục chiếm cao nhất (65,3%) trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Riêng tỷ trọng XK đang chiếm 50,7% với 73,7 tỷ USD trong tổng kim ngạch XK.
Theo nhận định của Bộ Công Thương, từ đầu năm đến nay, tất cả các nhóm thị trường mà Việt Nam có ký kết FTA và đang thực thi đều ghi nhận tăng trưởng tốt, cho thấy các ưu đãi từ các FTA cơ bản đã được tận dụng có hiệu quả.
Điển hình như trong 7 tháng qua, XK sang Nhật Bản đạt 11,4 tỷ USD, tăng 9,3%; Hàn Quốc: 10,7 tỷ USD, tăng 4,4%; ASEAN: 15,17 tỷ USD, tăng 5,4%; Nga: 1,67 tỷ USD, tăng 14,1%; New Zealand: 315,8 triệu USD, tăng 15%…
Đặc biệt, Bộ Công Thương cho biết kim ngạch XK sang các thị trường là thành viên Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đạt mức tăng tốt, thể hiện bước đầu tận dụng hiệu quả các cam kết từ Hiệp định để thúc đẩy XK, đa dạng hóa thị trường XK. Đơn cử như XK sang Canada 7 tháng đầu năm nay đạt 2,18 tỷ USD, tăng 31%; XK sang Mexico đạt 1,6 tỷ USD, tăng 24,2%.
Động lực cải thiện
Nhằm thúc đẩy XK trong những tháng cuối năm, ngoài việc thực hiện đồng bộ và triển khai hiệu quả các FTA đã có hiệu lực, để mở rộng thị trường XK, giới chuyên gia cho rằng Việt Nam cần tích cực chuẩn bị cho việc thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới mà FTA Việt Nam – EU (EVFTA) hay CPTPP là những điển hình.
Với EVFTA, để DN Việt tận dụng được cơ hội XK (chẳng hạn như ngành hàng nông sản thực phẩm), bà Magdalena Krakowiak, Phó chủ tịch Hiệp hội DN Trung và Đông Âu tại Việt Nam, có lời khuyên là cần cải thiện khâu sản xuất chế biến đối với những sản phẩm có tiềm năng XK. Đặc biệt là cần đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế và được EU công nhận về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm.
Theo bà Magdalena, thị trường EU có xu hướng trả giá cao hơn cho những sản phẩm xanh, sạch, bảo vệ môi trường và với EVFTA chính là cơ hội cho nông sản, thủy hải sản, rau củ quả của Việt Nam.
Trong bối cảnh có những lợi thế XK từ các FTA thì vấn đề xuất xứ hàng hóa vẫn là một thách thức lớn với các DN Việt. Như lưu ý của ông Nestor Sherbey, chuyên gia của Liên minh tạo thuận lợi thương mại toàn cầu (GTFA), ngoài nông sản XK có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam, những sản phẩm thuộc một số nhóm hàng khác rất cần chứng minh được xuất xứ, hồ sơ xuất nhập khẩu hàng hóa.
Hồi tháng 7 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ” nhằm nâng cao hiệu quả tham gia các FTA thế hệ mới và các FTA đã ký kết. Đặc biệt là ngăn chặn các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, chống gian lận xuất xứ hàng hóa, bảo vệ quyền và lợi ích của Việt Nam trong thương mại quốc tế
Thực tế cho thấy các FTA đã và đang tạo cơ hội cho hoạt động XK của Việt Nam. Nhưng, có lẽ còn quan trọng hơn, đó là qua tình hình XK hàng hóa được cập nhật hàng tháng cũng là một chuẩn so sánh, có thể đo lường năng lực cạnh tranh quốc tế của Việt Nam và mức độ hiệu quả ở những thị trường có FTA. Đây cũng là động lực để DN Việt tiếp tục cải thiện năng lực XK trong thời gian tới.