Tăng cường quản lý nhà nước về phát triển kinh tế số

Nguyễn Thị Hồng Nhạn

Hoạt động kinh tế số ở Việt Nam được nhiều tổ chức đánh giá là có nhiều tiềm năng và trên thực tế có quy mô ngày càng tăng đã góp phần không nhỏ vào tổng GDP của cả nước. Hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến phát triển kinh tế số ở Việt Nam bước đầu được hình thành. Tuy nhiên, thực tế phát triển của kinh tế số đòi hòi cần có giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này ở Việt Nam trong thời gian tới.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Yêu cầu từ thực tiễn quản lý nhà nước về phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Thực tế cho thấy, với dân số 100 triệu người (trong đó số người được tiếp cận với internet và sở hữu các thiết bị có thể truy cập internet chiếm tỷ lệ khá cao), cùng với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống cơ sở hạ tầng, các ứng dụng công nghệ, các nền tảng trực tuyến, hệ thống dịch vụ vận chuyển… Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế số.

Việc thực hiện Chính phủ điện tử trong thời gian qua, nhất là trong phòng, chống đại dịch Covid-19 đã tạo ra những thay đổi quan trọng, mang tính hệ thống hơn trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với các bộ, ngành và chính quyền địa phương.

Tính đến tháng 12/2019, đã có 30/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành kết nối liên thông phần mềm quản lý văn bản với Văn phòng Chính phủ, hình thành một hệ thống quản lý văn bản điện tử thống nhất, thông suốt từ Trung ương đến địa phương; cho phép tự động nhận biết được trạng thái xử lý văn bản giữa các cơ quan.

Trong thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 4 để phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn.

Cụ thể, đến hết năm 2020, tỷ lệ DVCTT mức độ 4 trung bình của cả nước là 30,86%, đạt mục tiêu năm 2020 nêu tại Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến 2025…

Tuy nhiên, sự bùng nổ của kinh tế số cũng đặt Việt Nam trước nhiều thách thức; trong đó có vấn đề về mặt pháp lý, về việc đảm bảo quyền riêng tư của người dùng… Cùng với đó, còn nhiều rào cản trong cơ chế, chính sách liên quan đến đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin nhằm phát triển kinh tế số. Ở cấp độ quốc gia, những vấn đề kinh tế - xã hội lớn của tiến trình số hóa đời sống đang ngày càng vượt ra khỏi khả năng giải quyết của khu vực tư và cần đến “bàn tay” hành động của Nhà nước.

Cụ thể, dù bước đầu đã đạt được một số kết quả khả quan trong tiến trình phát triển kinh tế số, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn trong lộ trình xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử để có thể hoàn thành được các nhiệm vụ đã đề ra tại Nghị quyết 36a/ND-CP ngày 14/10/2015 về Chính phủ điện tử, đạt được mục tiêu cải cách toàn diện 3 nhóm chỉ số dịch vụ công trực tuyến, hạ tầng viễn thông và nguồn nhân lực.

Việc triển khai Chính phủ điện tử chưa đạt được như kỳ vọng. Vị trí của Việt Nam trong Bảng xếp hạng Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Liên Hợp quốc vẫn ở mức trung bình. Theo báo cáo mới nhất của Liên Hợp quốc, 2 năm qua, Việt Nam tăng 1 bậc, đang xếp thứ 88 trong tổng số 193 quốc gia và lãnh thổ được đánh giá, xếp hạng. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam chỉ được xếp hạng khiêm tốn ở vị trí thứ 6.

Kết quả triển khai nhiều nhiệm vụ về Chính phủ điện tử còn chậm, nhiều nơi thực hiện mang tính hình thức. Việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng phục vụ phát triển Chính phủ điện tử chậm so với tiến độ; các hệ thống thông tin dữ liệu còn cục bộ, chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; chất lượng dữ liệu và thông tin chưa được cập nhật kịp thời, chính xác; nhiều hệ thống thông tin đã triển khai, nhưng chưa bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, mức độ tin cậy của quốc gia trong giao dịch điện tử thấp.

Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến còn chạy theo số lượng trong khi tỷ lệ hồ sơ thực hiện dịch vụ công trực tuyến còn rất thấp; việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc vẫn còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ. Vẫn còn những rào cản trong cơ chế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin, gây khó khăn cho các doanh nghiệp triển khai các dự án. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều lãnh đạo Chính phủ, bộ, ngành, địa phương chưa có đầy đủ thông tin dữ liệu số của các đối tượng mà mình quản lý.

Bên cạnh đó, cũng xuất hiện nhiều vấn đề khác cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của cơ quan nhà nước như: Bảo vệ quyền riêng tư trên môi trường internet của người dân; Vấn đề tin giả, thông tin không chính xác và các phát ngôn cực đoan trên môi trường mạng xã hội. Vấn đề xử lý tranh chấp cho các hoạt động kinh doanh, thương mại, dân sự trên môi trường số…

Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề trên là do các cấp, các ngành chưa xác định rõ lộ trình và các nhiệm vụ cụ thể để triển khai còn thiếu gắn kết giữa ứng dụng công nghệ thông tin với cải cách thủ tục hành chính và đổi mới cách thức làm việc, nhất là trong quan hệ với người dân, doanh nghiệp; chưa phát huy vai trò của người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện.

Đặc biệt, Việt Nam còn thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng Chính phủ điện tử, thiếu quy định cụ thể về xác thực cá nhân, tổ chức trong các giao dịch điện tử cũng như các quy định pháp lý về văn thư, lưu trữ điện tử, giá trị pháp lý của văn bản điện tử trong giao dịch hành chính và thanh toán.

Cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử còn chưa đồng bộ cũng là nguyên nhân của việc thực hiện còn chưa hiệu quả. Hơn nữa, Việt Nam cũng chưa phát huy tối đa sự tham gia của khu vực tư nhân trong xây dựng Chính phủ điện tử, thiếu cơ chế tài chính và đầu tư phù hợp với đặc thù của các dự án công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong môi trường kinh doanh của thế giới hiện nay… Thực tiễn đó đòi hỏi vai trò quản lý không thể thiếu của Nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế số ở Việt Nam phát triển.

Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Trên cơ sở thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với quản lý nhà nước về phát triển kinh tế số ở Việt Nam, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam, cụ thể như sau:

Một là, xây dựng và hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý cơ bản, toàn diện cho việc triển khai, xây dựng phát triển Chính phủ điện tử.

Cần sớm nghiên cứu và ban hành các nghị định về chia sẻ dữ liệu, xác thực điện tử, bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân... Kịp thời ban hành Nghị định về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với đặc thù của lĩnh vực này thay thế Nghị định số 102/2009/NĐ-CP về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước và Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thuê dịch vụ công nghệ thông tin.

Trong thời gian tới, cần nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Chính phủ điện tử và các văn bản hướng dẫn bảo đảm hành lang pháp lý phát triển Chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ mới hướng tới nền kinh tế số, xã hội số.

Hai là, hoàn thành các cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính chất nền tảng.

Cùng với việc xây dựng thể chế, cần tập trung hoàn thiện xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng quốc gia, đặc biệt là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai...; cần tiến hành xây dựng nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin ở Trung ương và địa phương; hệ thống liên thông gửi, nhận văn bản điện tử; hệ thống xác thực định danh điện tử; liên thông giữa các hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng của Chính phủ và chữ ký số công cộng; Cổng thanh toán quốc gia... để bảo đảm dữ liệu, thông tin được thông suốt giữa các cấp, các ngành của Chính phủ.

Ba là, thiết lập các hệ thống ứng dụng phục vụ người dân, doanh nghiệp và phục vụ quản lý điều hành của Chính phủ.

Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương cần tích cực xây dựng Cổng dịch vụ công quốc gia và triển khai Hệ thống thông tin một cửa điện tử kết nối Cổng dịch vụ công bộ, ngành, địa phương; kết nối giữa Chính phủ với người dân và doanh nghiệp, thể hiện tinh thần phục vụ, kiến tạo của Chính phủ.

Để phục vụ việc quản lý, điều hành của Chính phủ, thời gian tới, các Hệ thống thông tin Chính phủ không giấy tờ; Hệ thống điện tử về tham vấn chính sách; Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia tiến tới xây dựng Trung tâm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phải được tập trung nghiên cứu, thiết lập một cách tích hợp, đồng bộ, hệ thống có hiệu lực, hiệu quả.

Bốn là, rà soát, sắp xếp lại và huy động mọi nguồn lực cả về con người và tài chính.

Chính phủ cần tập trung đầu tư cho việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số nền tảng. Nâng cao hiệu quả đầu tư và huy động các nguồn lực để triển khai các nhiệm vụ ưu tiên phát triển Chính phủ điện tử, điều chỉnh cơ chế đầu tư đặc thù cho công nghệ thông tin, tăng cường xã hội hóa để phát huy hiệu quả hợp tác công - tư trong lĩnh vực này.

Đồng thời, chú trọng tổ chức đào tạo, tập huấn, khai thác sử dụng các hệ thống thông tin, sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 cho người dân, doanh nghiệp và nghiên cứu, xây dựng cơ chế khuyến khích thu hút nhân tài tham gia xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, nền kinh tế số.

Năm là, đánh giá khách quan, trung thực các nhiệm vụ triển khai, thực hiện Chính phủ điện tử.

Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, Chương trình xác định tầm nhìn đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; yêu cầu phải đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, chính quyền các cấp.

Các nhiệm vụ triển khai, thực hiện Chính phủ điện tử phải được đánh giá gắn liền với trách nhiệm thực thi, quản lý của cá nhân người đứng đầu ở từng bộ, ngành, địa phương, thông qua bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả, đo lường chất lượng việc xây dựng Chính phủ điện tử, nền kinh tế số trong quá trình phát triển bền vững đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.

Kết luận

Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số là một xu hướng bắt buộc khi thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ 4. Việt Nam muốn phát triển chuyển đổi số sẽ phải giải quyết các thách thức đặt ra từ chất lượng nguồn nhân lực đến đầu tư trang thiết bị cho sự chuyển đổi này.

Đồng thời, muốn chuyển đổi sang nền kinh tế số thành công, đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức và cơ quản lý nhà nước của Việt Nam phải áp dụng, chuyển đổi từ phong cách đến lề lối làm việc và tính hiệu quả trong công việc. Từ đó, tạo nền tảng, sức lan tỏa thúc đẩy người dân và doanh nghiệp nỗ lực cùng chuyển đổi. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước dẫn đường, trong chuyển đổi đang rất cần được thể hiện trong nền kinh tế số cả trước mắt và lâu dài.

Tài liệu tham khảo:

1. B Khoa hc Công ngh Vit Nam & B Ngoi giao và Thương mi Australia - Đại s Australia ti Vit Nam: Tương lai nn kinh tế s Vit Nam - Hướng ti năm 2030 và 2045;

2. Phm Vit Dũng (2020), Kinh tế s - cơ hi bt phá” cho Vit Nam, Hi đồng lý lun Trung ương, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/kinh-te-so---co-hoi-but-phacho-viet-nam.html;

3. Hà Quang Thy, Phan Xuân Hiếu, Nguyn Trí Thành, Trn Trng Hiếu, Trn Mai Vũ (2020), Kinh tế s: Bi cnh thế gii và liên h vi Vit Nam, Tp chí Công thương, http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/kinh-te-so-boi-canh-the-gioi-va-lien-he-voi-viet-nam-70275.htm'

4. Trn Th Hng, Nguyn Th Minh Hin (2019), Qun lý nhà nước trong nn kinh tế số”, Tp chí Lý lun chính tr, s 6/2019, Hà Ni;

5. Vietnam E-commerce, Industry and Trade Agency. Vietnam seeks to boost its digital economy. [13 July 2018]. Available from: http://www.vecita.gov.vn/ tinbai/1593/Vietnam-seeks-to-boost-digital-economy/en.

(*) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 5/2021.