Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế theo Nghị quyết của Quốc hội
(Tài chính) Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng vừa kết thúc đợt làm việc tại Tỉnh Quảng Ninh và TP. Hải Phòng. Qua thực tế gần 3 năm triển khai tái cơ cấu nền kinh tế tại địa phương, Quảng Ninh và Hải Phòng đều khẳng định tính đúng đắn và kịp thời của chủ trương này. Song, để tiến trình tái cơ cấu được đẩy nhanh hơn, mang lại hiệu quả rõ rệt hơn, hai địa phương nêu nhiều kiến nghị khá cụ thể đối với từng lĩnh vực, trong đó có kiến nghị về tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật.
Nhận rõ yếu kém và giới hạn của mô hình tăng trưởng hiện nay, Đại hội XI của Đảng đã xác định Đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế là định hướng tổng quát của phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011 - 2020. Đồng thời đề ra yêu cầu phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững. Ngay sau đó, tại Hội nghị lần thứ Ba, Trung ương đã cụ thể hóa định hướng này và xác định: phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh... Trong 5 năm tới, cần tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhất: tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.
Với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan lập pháp, cuối năm 2011, trong Nghị quyết số 10/2011/Quốc hội13 về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011 - 2015, Quốc hội đã nêu 9 định hướng, nhiệm vụ, giải pháp, trong đó có lộ trình và nội dung cụ thể cho từng lĩnh vực tái cơ cấu đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng.
Trên cơ sở văn bản của Trung ương, các địa phương đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về từng lĩnh vực. Báo cáo của UBND tỉnh Quảng Ninh cho thấy, việc ban hành các văn bản đã tạo hành lang pháp lý khá thuận lợi cho các ngành, các cấp, các đơn vị khi thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng theo Nghị quyết của Quốc hội. Hệ thống văn bản pháp luật đã ban hành, cơ bản đáp ứng kịp thời quá trình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế. Các nội dung được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung đã tạo sự thống nhất trong quản lý ngân sách nhà nước; sự minh bạch về trình tự, thủ tục, quy định rõ ràng trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của tập thể, cá nhân người đứng đầu...
Với Hải Phòng, việc ban hành và triển khai hàng loạt giải pháp về tái cơ cấu đầu tư công đã tạo ra các thay đổi trong cơ chế huy động, phân bổ, quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào đầu tư, nhưng hiệu quả thấp từng bước được cải thiện. Tỷ lệ tổng đầu tư toàn xã hội trên GDP của Hải Phòng giảm từ mức bình quân 47,3% giai đoạn 2001-2010 xuống còn hơn 43% giai đoạn 2011-2013. Cơ cấu đầu tư có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giảm từ 36,7% giai đoạn 2001-2010 xuống còn 33,6% giai đoạn 2011-2013. Tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có xu hướng tăng từ hơn 63% giai đoạn 2011-2010 lên 66,4% giai đoạn 2011-2013.
Đáng chú ý, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2012 đạt gần 8.400 tỷ đồng, chiếm hơn 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của thành phố. Mặc dù tỷ trọng vốn ngân sách nhà nước đầu tư trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội không lớn, nhưng đây là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng, được đầu tư vào các công trình hạ tầng thiết yếu, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội của địa phương, góp phần tạo môi trường thuận lợi, tăng sức hấp dẫn để huy động các nguồn vốn khác vào đầu tư phát triển trên địa bàn.
Với Quảng Ninh, tình hình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được tiến hành khẩn trương và có kết quả cụ thể. Nếu từ năm 2011, Quảng Ninh có 19 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc UBND tỉnh thì đến hết năm 2013, tỉnh đã thực hiện cổ phần hóa xong Công ty TNHH một thành viên Kinh doanh nước sạch Quảng Ninh, trong đó Nhà nước giữ gần 95% vốn Điều lệ; đang trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp đối với một số công ty, doanh nghiệp khác.
Sau sắp xếp, đổi mới, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý đã năng động hơn, kinh doanh có hiệu quả, sử dụng vốn trong kinh doanh hợp lý hơn. Đặc biệt một số doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, đạt lợi nhuận sau thuế cao. Riêng về doanh thu, các chỉ tiêu về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều bảo đảm, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2011, tổng doanh thu của 19 doanh nghiệp là 894 tỷ đồng, năm 2012 con số này đã đạt 1.066 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2011 và đạt 1.101 tỷ đồng vào năm 2013, tăng 3,6% so với năm 2012. Vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp cũng ngày càng tăng. Năm 2011, tổng vốn nhà nước tại 19 doanh nghiệp là 1.062 tỷ đồng, đến hết năm 2013 đạt 1.311 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2011...
Các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả đã bảo đảm thu nhập của người lao động. Nếu thu nhập bình quân của người lao động tại các doanh nghiệp của Quảng Ninh năm 2011 mới đạt 4,2 triệu đồng/người/tháng thì đến năm 2013 đã đạt 5,4 triệu đồng/người/tháng. Đánh giá chung cho thấy, kết quả bước đầu của quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước tại Quảng Ninh là khả quan. Các doanh nghiệp đã thích ứng với tình hình mới, chủ động tìm nguồn đầu tư, tăng năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, mở thêm ngành nghề, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, cải tiến phương pháp tiếp thị, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Song song đó, các doanh nghiệp vẫn bảo toàn và quản lý tốt phần vốn nhà nước được giao, bảo đảm an ninh - quốc phòng, quản lý tài nguyên, đất đai, bảo đảm an ninh lương thực, quản lý và bảo vệ tốt đất rừng, vốn rừng được Nhà nước giao và thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Bức tranh khả quan về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước không chỉ có ở Quảng Ninh. Tiến trình tái cơ cấu doanh nghiệp TP. Hải Phòng cũng ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Sau khi tiến hành sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp không còn dàn trải trong nhiều ngành, nghề, lĩnh vực như trước đây mà tập trung vào hoạt động trong ngành, lĩnh vực dịch vụ thiết yếu như: cấp, thoát nước; quản lý khai thác các công trình thủy nông...
Bộ máy các doanh nghiệp được củng cố lại gọn nhẹ và tính tự chủ trong quản lý doanh nghiệp được nâng lên, năng động hơn, chi phí hành chính giảm rõ rệt. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao, thể hiện qua con số tổng doanh thu của các doanh nghiệp tăng dần qua các năm 2011, 2012, 2013 và lần lượt là 1.757 tỷ đồng, 2.087 tỷ đồng, 2.115 tỷ đồng. Tổng lợi nhuận năm 2011, 2012, 2013 lần lượt là 69 tỷ đồng, 89 tỷ đồng, 97 tỷ đồng. Trong đó số doanh nghiệp kinh doanh có lãi qua 3 năm lần lượt là 21 doanh nghiệp, 22 doanh nghiệp và 21 doanh nghiệp với mức lãi lần lượt là 84 tỷ đồng, 105 tỷ đồng, 108 tỷ đồng. Tổng số nộp ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp trong 3 năm 2011, 2012, 2013 lần lượt là 119 tỷ đồng, 144 tỷ đồng, 220,8 tỷ đồng. Thu nhập của người lao động cũng được bảo đảm qua các năm, bình quân đạt 3,7 triệu người/ tháng năm 2011, tăng lên 4,4 triệu đồng/người/tháng năm 2012 và đến năm 2013 đạt 5,07 triệu đồng/người/tháng.
Dẫu vậy, việc đạt những kết quả tích cực là chủ yếu nêu trên của Quảng Ninh và Hải Phòng không có nghĩa tiến trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước tại hai địa phương này không gặp khó khăn, vướng mắc. Tại cuộc làm việc với Công ty TNHH một thành viên Bến xe - bến tàu Quảng Ninh, Đoàn giám sát đã nhận được một kiến nghị ngược. Công ty TNHH một thành viên Bến xe - bến tàu Quảng Ninh đang trong quá trình cổ phần hóa. Do không hoạt động trong các ngành, nghề, lĩnh vực dịch vụ thiết yếu nên Công ty không thuộc nhóm doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 50% cổ phần. Tuy nhiên, từ thực tế hoạt động, Công ty lại kiến nghị Nhà nước nên nắm giữ 51% cổ phần.
Trong khi đó, xu hướng chung của các doanh nghiệp cổ phần hóa là hạn chế số cổ phần Nhà nước nắm giữ để tăng tính tự chủ của doanh nghiệp. Đại diện Công ty chia sẻ, với nhiệm vụ quản lý các bến xe trên địa bàn Quảng Ninh, Công ty là đơn vị chính trong việc điều tiết, bố trí tăng cường phương tiện để hành khách đi lại được thông suốt, trong khi vẫn giữ giá cả bình ổn. Những ngày có bão lớn, Công ty cũng là đơn vị chủ lực huy động xe sẵn sàng giúp di dân tránh bão. Một số bến xe nhỏ ở huyện miền núi hoạt động không hiệu quả như bến xe Bình Liêu, bến xe Tiên Yên... nhưng vẫn được Công ty duy trì hoạt động để bảo đảm phục vụ nhu cầu đi lại của người dân. Do vậy, điều Ban lãnh đạo và người lao động Công ty lo ngại là sau khi cổ phần hóa, vì hoạt động theo mục đích lợi nhuận nên sẽ khó bảo đảm chức năng an sinh xã hội địa phương giao. Trong khi đó, hiện nay pháp luật chưa xác định rõ cách thức cân bằng giữa mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu công ích tại các doanh nghiệp có một phần vốn nhà nước.
Còn TP. Hải Phòng thì không phải doanh nghiệp nào sau khi tái cơ cấu cũng làm ăn có hiệu quả. Một số doanh nghiệp như Công ty cổ phần Thép và cơ khí vật liệu xây dựng Hải Phòng, Công ty cổ phần Vận tải và du lịch Hải Phòng... sau cổ phần hóa hoạt động lại có phần kém hiệu quả, doanh thu giảm và số tiền nộp ngân sách giảm. Đại diện lãnh đạo UBND TP. Hải Phòng và các doanh nghiệp này cũng thẳng thắn nhìn nhận, thực trạng trên là bởi hiện còn thiếu các cơ chế phân công, phân cấp và phối hợp giữa các cơ quan với doanh nghiệp trong quản lý phần vốn nhà nước, đồng thời cũng chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát và chế tài hiệu quả. Vì thế, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào cái tâm của ban lãnh đạo các doanh nghiệp, nếu ban lãnh đạo thiếu trách nhiệm thì hiệu quả sử dụng đồng vốn của nhà nước trong doanh nghiệp sẽ thấp.
Từ kết quả bước đầu giám sát việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong ba lĩnh vực, trong đó có tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước tại tỉnh Quảng Ninh và TP. Hải Phòng, rõ ràng có thể khẳng định chủ trương, định hướng tái cơ cấu mà Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã đề ra là đúng đắn và kịp thời. Là những địa phương trực tiếp chỉ đạo, thực hiện, đưa chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế vào cuộc sống, Quảng Ninh và Hải Phòng đã đưa nhiều đề xuất, kiến nghị cụ thể đối với từng lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng. Trong đó có những đề xuất thuộc trách nhiệm làm luật của Quốc hội.
Với Quảng Ninh, đó là hoàn thiện các thể chế, văn bản pháp luật về đầu tư, trong đó có sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo hướng tăng cường nuôi dưỡng nguồn thu đối với các địa phương có nguồn thu lớn để đầu tư phát triển hạ tầng, góp phần thúc đẩy xây dựng các cực tăng trưởng ở những nơi có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới hiện nay. Với Hải Phòng, đó là Quốc hội cần sớm thông qua dự án Luật Đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất kinh doanh, sửa đổi Luật Chứng khoán hiện hành theo hướng tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các giao dịch diễn ra trên thị trường chứng khoán, không để xảy ra lũng đoạn, thôn tính không lành mạnh, ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư và dư luận xã hội, bảo đảm thị trường hoạt động công khai, minh bạch và tạo cơ chế, chính sách nhằm thu hút đông đảo nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán...
Những dự án luật đều đã có tên trong Chương trình lập pháp của Quốc hội Khóa XIII. Riêng dự án Luật Đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất kinh doanh đã được Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ Bảy vừa qua và dự kiến sẽ được xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ Tám tới.
Sau Quảng Ninh và Hải Phòng cũng như các cuộc làm việc với một số bộ, ngành, tập đoàn kinh tế và ngân hàng thương mại, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tiếp tục có các cuộc làm việc tại nhiều bộ, ngành, địa phương khác trên cả nước. Tin rằng, kết quả các cuộc làm việc này sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những kết quả cũng như những vướng mắc cần tháo gỡ, góp phần đẩy nhanh và đưa Nghị quyết của Trung ương, của Quốc hội về tái cơ cấu thực sự đi vào cuộc sống. Theo đó, nền kinh tế nước ta sẽ được cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, thực hiện đồng bộ trong tất cả các ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và từng địa phương, đơn vị cơ sở, sản phẩm chủ yếu, với tầm nhìn dài hạn và có lộ trình cụ thể. Ba lĩnh vực quan trọng sẽ thực sự được tập trung thực hiện là: cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính; cơ cấu lại doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, đến năm 2015 tạo được chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản, có hiệu quả rõ rệt.