Tổng tài sản hệ thống ngân hàng vượt 12 triệu tỷ đồng
Theo cập nhật mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước, tổng tài sản hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam tính đến hết ngày 30/9/2019 đạt trên 12 triệu tỷ đồng, tăng 8,48% so với hồi đầu năm.
Nhóm 7 ngân hàng thương mại Nhà nước (gồm Agribank, Vietcombank, VietinBank, BIDV, GPBank, CBBank và OceanBank) có tổng tài sản đạt trên 5,2 triệu tỷ đồng, tăng 7,12% so với đầu năm và giữ tỷ trọng lớn nhất với 43,4%.
Trong khi đó, tổng tài sản nhóm ngân hàng thương mại tư nhân đạt trên 4,96 triệu tỷ đồng, tăng 9,06% và chiếm 41,4% tổng tài sản toàn hệ thống.
Nhóm ngân hàng liên doanh, nước ngoài ghi nhận tổng tài sản 1,26 triệu tỷ đồng, tăng 11,36%; nhóm công ty tài chính, cho thuê tài chính ghi nhận 190.797 tỷ đồng tổng tài sản, tăng 13,69%,...
Vốn tự có của toàn hệ thống (đã loại bỏ tổ chức tín dụng có vốn tự có âm) cuối tháng 9 đạt 882.493 tỷ đồng, tăng 9,47%. Trong đó, vốn tự có của các ngân hàng quốc doanh đạt 293.736 tỷ đồng, ngân hàng thương mại tư nhân là 365.42 tỷ đồng, tăng lần lượt 9,36% và 8,06%. Trong khi đó, vốn tự có của các ngân hàng liên doanh, nước ngoài tăng mạnh hơn với 12,82%, đạt 183.751 tỷ đồng.
Việc tốc độ tăng trưởng vốn tự có cao hơn tốc độ tăng trưởng tổng tài sản (9,36% so với 7,12%) giúp tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước tăng trong 9 tháng năm nay, từ mức 9,52% hồi đầu năm lên 9,78% tính đến cuối tháng 9/2019.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của cả hệ thống cuối tháng 9 là 12,02%. Trong đó, CAR của nhóm ngân hàng quốc doanh là 9,78%, của ngân hàng tư nhân là 10,81%. Đáng chú ý, CAR của các ngân hàng liên doanh, nước ngoài lên tới 24,84%, của các công ty tài chính, cho thuê đạt 17,93% và ngân hàng hợp tác xã cũng đạt mức rất cao là 18,67%.
Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của các ngân hàng thương mại Nhà nước là 29,96%, của các ngân hàng tư nhân là 30,89%. Có thể thấy, tỷ lệ này nhìn chung không quá cách biệt so với yêu cầu đưa tỷ lệ này xuống dưới 30% từ năm 2022 theo Thông tư 22 vừa được NHNN ban hành.