Trao đổi về năng lực tài chính của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính ngày càng phát triển và khi đó công cụ tài chính càng đa dạng, nguồn vốn tiềm năng cho doanh nghiệp càng phong phú. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là doanh nghiệp có khả năng tiếp cận huy động khai thác các nguồn vốn đó hay không. Chính điều đó là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt về năng lực tài chính giữa các doanh nghiệp. Bài viết phân tích làm rõ những kiến thức về năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Khái niệm về năng lực tài chính
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà Xuất bản Đà Nẵng (2000), "Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” (Trang 660, 661). “Khả năng, điều kiện” ở đây được hiểu như cái vốn có, cái sẵn có của ngay bản thân đối tượng được đề cập. Bên cạnh đó, nội hàm khái niệm “năng lực” cần được hiểu. Đó là, cái vốn có, khả năng, điều kiện đó nhằm thực hiện một hoạt động nhất định.
Năng lực sản xuất của nhà máy là khả năng thực hiện hoạt động sản xuất của nhà máy. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) là duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững…
Từ những điều nêu trên có thể rút ra năng lực của một chủ thể trong một lĩnh vực là khả năng đáp ứng những yêu cầu của hoạt động nhằm đạt tới mục tiêu nhất định.
Theo quan điểm của các nhà khoa học "Tài chính thể hiện là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội".
Biểu hiện bên ngoài hay mặt vật chất của tài chính là các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ. Quan sát thực tiễn các quá trình vận động kinh tế- xã hội có thể nhận thấy các biểu hiện bên ngoài này thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Tiền tệ đại diện cho một sức mua nhất định, một lượng giá trị nhất định gọi là nguồn tài chính. Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể kinh tế xã hội có thể khai thác sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình.
Trên góc độ tài chính, thuật ngữ năng lực tài chính của DN đã được sử dụng khá phổ biến nhưng khái niệm, nội hàm của nó vẫn chưa được nghiên cứu một cách cụ thể. Tựu chung, "Năng lực tài chính của DN là khả năng đảm bảo nguồn lực tài chính cho hoạt động của DN nhằm đạt được mục tiêu DN đề ra.
Nội dung năng lực tài chính
Nguồn lực tài chính thực chất là nguồn vốn mà DN có khả năng huy động đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động của DN. Nguồn lực tài chính là vốn bằng tiền và các tài sản có thể chuyển hóa thành tiền hay tương đương tiền mà DN có khả năng sử dụng các công cụ tài chính để huy động đáp ứng yêu cầu cần thiết cho hoạt động của mình.
Năng lực tài chính của mỗi DN có giới hạn nhất định. Sự giới hạn đó bắt nguồn từ sự chi phối bởi các yếu tố bên trong cấu thành DN và các yếu tố bên ngoài.
Trong hoạt động của DN, để thực hiện mục tiêu đề ra đòi hỏi phải có năng lực tài chính tương xứng. Mục tiêu của DN chính là cái đích mà DN hướng tới. Các DN hoạt động trong môi trường luôn luôn biến động, từ đó xuất hiện những cơ hội có thể đem lại lợi nhuận cũng như rủi ro cho DN. Trong điều kiện đó nhà quản trị phải có khả năng đưa ra những quyết định phù hợp với mục tiêu của DN, đồng thời phải tổ chức thực hiện các hoạt động của DN hướng tới mục tiêu đặt ra. Hầu hết các DN đều có mục tiêu làm ra càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Nhưng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận không phải là công việc dễ đánh giá bởi mục tiêu này chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như thời gian, rủi ro... do đó không thể coi lợi nhuận là yếu tố duy nhất tác động đến hoạt động của DN. Chính vì vậy, tối đa hóa giá trị thị trường của DN hay tối đa hóa giá trị tài sản của các chủ sở hữu hiện tại là mục tiêu quan tâm nhất của các nhà quản trị tài chính DN. Mục tiêu này có tính bao trùm, bởi lẽ nó xem xét, đánh giá hoạt động kinh doanh của DN dưới góc độ thời gian, rủi ro và nhiều yếu tố khác. Tuy nhiên, các nhà quản trị thường rất khó dự đoán chính xác phản ứng của thị trường đối với một quyết định hay một kế hoạch kinh doanh. Mặt khác, việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của một quyết định tài chính đối với giá trị của DN cũng không dễ dàng vì có rất nhiều yếu tố môi trường thay đổi cùng lúc tại thời điểm ra quyết định. Vì vậy, nhà quản trị giỏi phải là người đưa ra các quyết định đúng đắn, hợp lý nhằm tối đa hóa giá trị thị trường của DN, tối đa hóa giá trị tài sản của các cổ đông.
Nội dung của năng lực tài chính bao gồm:
Thứ nhất, là khả năng huy động vốn để đáp ứng cho các hoạt động của DN.
Nguồn lực tài chính là vốn bằng tiền và các tài sản có thể chuyển hóa thành tiền hay tương đương tiền mà DN có khả năng sử dụng các công cụ tài chính để huy động đáp ứng yêu cầu cần thiết cho hoạt động của mình. Để tiến hành các hoạt động kinh doanh bất kỳ một DN nào cũng cần phải có một lượng vốn kinh doanh nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh của DN là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động sử dụng vào hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Vốn kinh doanh không chỉ là điều kiện tiên quyết đối với sự ra đời của DN mà nó còn là một trong những yếu tố giữ vai trò quyết định trong quá trình hoạt động và phát triển của DN. Việc thiếu vốn sẽ khiến cho các hoạt động của DN gặp khó khăn có thể bỏ lỡ cơ hội đầu tư hoặc phải thu hẹp quy mô kinh doanh. Do vậy, một DN có năng lực tài chính phải đảm bảo đáp ứng đủ vốn cho các hoạt động của DN được tiến hành bình thường, liên tục. Khả năng huy động vốn được thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
- Khả năng tự tài trợ là khả năng DN có thể sử dụng các nguồn vốn của chủ sở hữu phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ DN, bao gồm số vốn chủ sở hữu bỏ ra và phần bổ sung từ kết quả kinh doanh. Khả năng tự tài trợ được xác định qua chỉ tiêu sau:
Khả năng tự tài trợ |
= |
Vốn chủ sở hữu |
Tổng tài sản |
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng huy động vốn chủ sở hữu để tài trợ cho các tài sản của DN. Chỉ tiêu này càng cao, khả năng huy động vốn chủ sở hữu để tài trợ cho tài sản càng lớn, năng lực tài chính của DN càng cao.
- Huy động vốn nợ cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực tài chính của DN. Huy động vốn nợ thể hiện khả năng DN có thể có thêm vốn, có thêm tài sản từ các DN và chủ thể khác để tiến hành sản xuất kinh doanh. DN có thể huy động từ việc vay vốn ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tài chính; thuê tài chính; phát hành trái phiếu; vay bạn bè, người thân... Đây là tiêu chí đánh giá khả năng huy động vốn của DN và được thể hiện qua chỉ tiêu:
Hệ số nợ trên vốn CSH |
= |
Nợ phải trả |
Vốn chủ sở hữu |
Hệ số này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu đảm bảo cho bao nhiêu đồng nợ phải trả. Tỷ lệ tổng nợ trên vốn chủ sở hữu giúp nhà đầu tư có một cái nhìn khái quát về sức mạnh tài chính, cấu trúc tài chính của DN và làm thế nào DN có thể chi trả cho các hoạt động. Thông thường, nếu hệ số này lớn hơn 1, có nghĩa là tài sản của DN được tài trợ chủ yếu bởi các khoản nợ, còn ngược lại thì tài sản của DN được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn chủ sở hữu.
Về nguyên tắc, hệ số này càng nhỏ, có nghĩa là nợ phải trả chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng tài sản hay tổng nguồn vốn thì DN ít gặp khó khăn hơn trong tài chính. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng gặp khó khăn trong việc trả nợ hoặc phá sản của DN càng lớn.
Thứ hai, năng lực tài chính thể hiện thông qua năng lực quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả của DN.
Năng lực tài chính của DN không chỉ thể hiện ở khả năng huy động nguồn vốn hiện có mà tiếp cận rộng hơn năng lực tài chính còn thể hiện tiềm năng có thể khai thác nguồn vốn cho hoạt động của DN trong tương lai. Việc DN có thể khai thác nguồn vốn cho hoạt động của DN trong tương lai được tác giả phân tích thông qua khả năng quản lý và sử dụng vốn hiện có của DN. Nguồn vốn tạo lập của DN thể hiện yếu tố “ tiền đề” cho hoạt động của DN thì yếu tố “quyết định” đến kết quả hoạt động kinh doanh của DN chính là năng lực quản lý và sử dụng vốn. Khi DN quản lý và sử dụng vốn hiện có hiệu quả sẽ giúp gia tăng lợi nhuận từ đó có thể gia tăng nguồn vốn nội sinh cho DN (lợi nhuận để lại để tái đầu tư), bên cạnh đó việc sử dụng vốn hiệu quả tạo cơ hội cho DN tiếp cận các nguồn vốn vay khác trong tương lai với quy mô lớn hơn như vay ngân hàng, tín dụng nhà cung cấp, phát hành trái phiếu...
Để tiến hành đánh giá năng lực quản lý và sử dụng vốn tác giả đánh giá thông qua khả năng sinh lời từ việc sử dụng vốn của DN. Khả năng sinh lời cao cho thấy DN quản lý và sử dụng vốn hiệu quả và ngược lại. Khả năng sinh lời là chỉ tiêu quan trọng đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù, khả năng sinh lời có thể đạt được và đo lường trong một thời kỳ ngắn hạn, nhưng các DN cần phải luôn nỗ lực theo đuổi khả năng sinh lời dài hạn. Các chỉ tiêu thể hiện năng lực quản lý và sử dụng vốn như sau:
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần (ROS):
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần(ROS) |
= |
Lợi nhuận sau thuế |
x 100% |
Doanh thu thuần |
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần trong kỳ của DN. Nó thể hiện, khi thực hiện một đồng doanh thu thuần trong kỳ, doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy một đồng doanh thu thuần thu được nhiều lợi nhuận sau thuế hơn. Từ đó, giúp phần lợi nhuận để lại có cơ hội được gia tăng, góp phần gia tăng năng lực tài chính chủ sở hữu nội sinh.
- Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản:
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh (BEP) |
= |
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế |
Vốn kinh doanh bình quân |
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn kinh doanh bình quân tham gia vào hoạt động sản suất kinh doanh trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước lãi vay và thuế.
- Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh:
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh (ROA) |
= |
Lợi nhuận sau thuế |
x 100% |
Vốn kinh doanh bình quân |
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh phản ánh khả năng sinh lời của vốn kinh doanh. Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng vốn sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao. Một đồng vốn kinh doanh thu được nhiều lợi nhuận sau thuế hơn. Từ đó, giúp phần lợi nhuận để lại có cơ hội được gia tăng, góp phần gia tăng năng lực tài chính chủ sở hữu nội sinh. Do đó, năng lực tài chính của doanh nghiệp càng mạnh và ngược lại.
Công thức xác định ROA còn được diễn giải dưới dạng phân tích nhân tố như sau:
ROA = ROS * Vòng quay vốn kinh doanh
- Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu:
Tỷ suất lợi nhuận |
= |
Lợi nhuận sau thuế |
x 100% |
Vốn chủ sở hữu bình quân |
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu trong DN. Chỉ tiêu này đo lường mức lợi nhuận thu được trên mỗi đồng vốn của chủ sở hữu trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra tạo nhiều đồng lợi nhuận sau thuế hơn. Như vậy, nếu mọi yếu tố khác không thay đổi lợi nhuận để lại sẽ gia tăng giúp DN gia tăng được năng lực tài chính chủ sở hữu nội sinh. Từ đó năng lực tài chính của DN càng được cải thiện và ngược lại.
- Giá trị gia tăng kinh tế (EVA)
EVA = NOPAT - (WACC * vốn đầu tư)
Trong đó: NOPAT = EBIT * (1 – t)
EBIT : Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
t: Thuế suất thuế thu nhập DN
WACC = Chi phí sử dụng vốn bình quân
Vốn đầu tư = Tài sản – Nợ ngắn hạn
EVA là thước đo hiệu quả hoạt động của DN dựa trên tài sản còn lại bằng cách lấy lợi nhuận trước lãi vay và thuế trừ đi thuế thu nhập DN và trừ đi chi phí vốn.
Thứ ba, là khả năng đảm bảo an toàn tài chính DN.
Trong hoạt động kinh doanh, các DN luôn phải đối mặt với những biến cố không chắc chắn trong tương lai có thể gây tổn thất, thiệt hại cho DN. Chẳng hạn như các yếu tố: lạm phát, sự biến động của lãi suất, tỷ giá hối đoái, thiên tai…đã tác động mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh, từ đó tác động đến giá trị tài sản và kết quả kinh doanh của DN. Người ta thường coi đó là rủi ro. Như vậy, rủi ro là một sự ngẫu nhiên xuất hiện các biến cố có thể đưa lại tổn thất hay kết quả không như mong đợi.
Khả năng an toàn cho DN có nghĩa là khả năng đảm bảo các hoạt động của DN không bị tổn thương, không bị nguy hiểm từ những rủi ro trong quá trình sản xuất, kinh doanh nhất là những rủi ro về mặt tài chính. Việc an toàn tài chính rất quan trọng đối với sự phát triển của DN. Sự không an toàn về tài chính làm cho DN dễ rơi vào khủng hoảng, làm cho khả năng huy động vốn giảm, hiệu quả sản xuất không cao, bị thua lỗ thậm chí dẫn tới phá sản.
Giữ được an toàn đồng nghĩa với không tự mình gây hại cho mình, đồng thời, ngăn chặn, chống lại được những tác động tiêu cực từ bên ngoài và do đó, uy tín tăng lên, có thể làm tăng khả năng huy động vốn phục vục cho hoạt động kinh doanh, từ đó có thể thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên góp phần nâng cao năng lực tài chính của DN.
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng đảm bảo an toàn tài chính DN gồm:
- Khả năng thanh toán được đánh giá qua 3 chỉ tiêu cơ bản: Hệ số khả năng thanh toán hiện thời, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán tức thời.
+ Hệ số khả năng thanh toán hiện thời:
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời |
= |
Tài sản ngắn hạn |
Tổng nợ ngắn hạn |
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn (những khoản nợ có thời hạn dưới 1 năm) bằng các tài sản có thể chuyển đổi trong thời gian ngắn (thường dưới 1 năm). Giá trị tài sản ngắn hạn được xác định là tổng các khoản: tiền và tương đương tiền; các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn; các khoản phải thu ngắn hạn; hàng tồn kho ngắn hạn và tài sản ngắn hạn khác. Số nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong khoảng thời gian dưới 12 tháng bao gồm: các khoản vay ngắn hạn, phải trả cho người bán, thuế và các khoản phải trả người lao động, nợ dài hạn đến hạn trả, các khoản phải trả khác có thời hạn dưới 12 tháng. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn, vì thế, nó cũng thể hiện mức độ đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của DN.
Thông thường, khi hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của DN là yếu và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tiềm ẩn về tài chính mà DN có thể gặp phải trong việc trả nợ. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời cao cho thấy DN có khả năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn, khả năng bảo đảm an toàn tài chính của DN là tốt, năng lực tài chính của DN cao và ngược lại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh năng lực thanh toán, năng lực tài chính của DN là tốt. Do vậy, để đánh giá đúng hơn cần xem xét thêm tình hình của DN, bởi nếu hàng hóa tồn kho là những loại hàng hóa khó bán DN rất khó biến chúng thành tiền để trả nợ. Do vậy, người ta sử dụng kết hợp hệ số khả năng thanh toán nhanh để đánh giá khả năng thanh toán của DN.
+ Hệ số khả năng thanh toán nhanh:
Hệ số thanh toán nhanh |
= |
Tài sản ngắn hạn - Hàng tồn kho |
Tổng nợ ngắn hạn |
Hệ số khả năng thanh toán nhanh phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng số tiền hiện có và tài sản ngắn hạn có thể chuyển đổi nhanh thành tiền trong DN. Đây là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của DN, được xác định bằng tài sản lưu động trừ đi hàng tồn kho và chia cho số nợ ngắn hạn. Hệ số khả năng thanh toán nhanh là chỉ tiêu được các chủ nợ quan tâm để đánh giá tại thời điểm phân tích, DN có khả năng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn hay không. Do các loại hàng hóa tồn kho có tính thanh khoản thấp bởi việc biến chúng thành tiền có thể mất khá nhiều thời gian nên không được tính vào tỷ số này. Chỉ tiêu này càng cao thì khả năng thanh toán, khả năng bảo đảm an toàn của DN tốt, khả năng tài chính của DN mạnh và ngược lại.
+ Hệ số khả năng thanh toán tức thời:
Hệ số khả năng thanh toán tức thời |
= |
Tiền và tương đương tiền |
Tổng nợ ngắn hạn |
Trong đó, tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, các khoản đầu tư ngắn hạn khác có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền trong thời hạn 3 tháng và không gặp rủi ro lớn. Hệ số khả năng thanh toán tức thời đánh giá khả năng nhanh nhất của doanh nghiệp sử dụng tài sản của mình (dưới hình thức tiền và tương đương tiền) để trả các khoản nợ ngắn hạn. Cũng như 2 chỉ tiêu trên, chỉ tiêu này càng cao thì khả năng thanh toán, khả năng bảo đảm an toàn của doanh nghiệp là tốt, khả năng tài chính của DN mạnh và ngược lại.
- Hệ số nguy cơ phá sản Z-Score
Có nhiều phương pháp dự báo nguy cơ vỡ nợ của doanh nghiệp đã được xây dựng và công bố. Tuy nhiên, ít có phương pháp được kiểm tra kỹ lưỡng và chấp nhận rộng rãi như hàm thống kê Z-score của Altman. Mô hình điểm số phân biệt nhiều biến số do Altman (1981) phát triển đầu tiên. Sau đó được Steele (1984), Moms (1997) và các nhà nghiên cứu khác phát triển thêm. Dạng tổng quát của mô hình là:
Trong đó :
c là hằng số
ri là các hệ số tài chính và chỉ tiêu phi tài chính được sử dụng như những biến số
ci là các hệ số của mỗi biến số trong mô hình.
i = 1;n là số đại lượng tham gia vào biến số trong tập hợp quan sát
DN tính toán hệ số Zscore để biết được mức độ rủi ro của mình để từ đó có biện pháp giảm rủi ro. Vì hệ số Z score bao gồm nhiều hệ số riêng lẻ, do đó DN có thể thay đổi hệ số Z score bằng cách tác động lên từng hệ số.
Hệ số Zscore ngoài tác dụng giúp DN đo lường được rủi ro từ đó đưa ra các giải pháp kiểm soát rủi ro tài chính, Giáo Sư Esward I. Altman - tác giả của chỉ số này đã phát mình tiếp hệ số Z’’ điều chỉnh. Chỉ số này bằng với chỉ số Z’’+3.25. Công thức Z’’ điều chỉnh được xác định như sau:
Z’’ = 3,25 + 6,56X1 + 3,26X2 + 6,72X3 + 1,05X4.
Hệ số X1 (Nguồn vốn lưu động thường xuyên/Tổng tài sản): Hệ số này có thể kiểm tra sự khó khăn về tài chính của DN, DN có nguồn vốn lưu động thường xuyên âm thì sẽ gặp khó khăn về việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn vì không đủ vốn lưu động để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Ngược lại, DN nào có nguồn vốn lưu động dương thì ít gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Qua bảng tính toán hệ số này luôn dương ở các năm, như vậy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn được đảm bảo.
Hệ số X2 (= Lợi nhuận giữ lại / Tổng tài sản): Hệ số này phản ánh DN kinh doanh có lợi nhuận hay thua lỗ, và phản ánh mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của DN. DN có hệ số này thấp chứng tỏ DN đó hiện tại đang sử dụng nhiều nợ để tài trợ cho nhu cầu vốn của mình hơn là dùng lợi nhuận giữ lại, một bộ phận của vốn chủ sở hữu. DN nào có hệ số này cao phản ánh DN đó kinh doanh có lợi nhuận và dùng nợ ở mức độ thấp.
Hệ số X3 (= EBIT/Tổng tài sản): Hệ số này cho thấy khả năng sinh lời của tài sản không tính đến ảnh hưởng của nguồn gốc vốn kinh doanh và ảnh hưởng của thuế thu nhập DN. Hay nói cách khác đây là số lợi nhuận được tạo ra từ toàn bộ tài sản của các DN, chưa trừ đi lãi vay và thuế thu nhập DN.
Hệ số X4 (Vốn chủ sở hữu bình quân/tổng nợ bình quân): Hệ số này phản ánh khả năng tự chủ về tài chính của DN so với các khoản nợ phải trả.
Hệ số X5 (Doanh thu thuần/Tổng tài sản bình quân): Cho biết khả năng sinh lời từ việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
Hệ số tín nhiệm giúp đánh giá khả năng tài chính và khả năng thanh toán của các DN đối với các khoản tiền nghĩa vụ (cả gốc và lãi) của các công cụ nợ mà nó phát hành. Công cụ nợ là tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi.
Ngoài ra, để đảm bảo an toàn tài chính, DN có thể phòng ngừa và chống đỡ rủi ro qua việc phân phối lợi nhuận, trích lập các quỹ dự phòng và sử dụng các quỹ của DN sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển DN và cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên của DN. Hoặc thậm chí DN có thể sử dụng mô hình hay những chỉ số dự báo nguy cơ mất an toàn tài chính để từ đó có những giải pháp khắc phục kịp thời.
Kết luận
Thế giới đang phát triển nhanh chóng nhờ vào nỗ lực cải cách, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, nhưng lại đang đối mặt với nhiều vấn đề như gia tăng khoảng cách giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu... Vì vậy, nâng cao năng lực tài chính của các DN nhằm góp phần phát triển bền vững về môi trường, phát triển kinh tế xã hội ổn định là mục tiêu chính của các quốc gia phát triển và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Để làm được điều đó, DN phải tạo ra được giá trị lâu dài từ những nguồn lực sẵn có của mình, dù tính chất ngành, hoạt động và cơ cấu tổ chức của DN có khác nhau thì cũng đều phải tuân theo quy tắc này để có thể tăng trưởng bền vững.
Tài liệu tham khảo:
- Bùi Văn Vần, Vũ Văn Ninh – Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” – NXB Tài Chính, 2015;
- Phạm Thị Vân Anh – “Tác động của năng lực tài chính tới tăng trưởng bền vững của các doanh nghiệp xây dựng niêm yết ở Việt Nam” (2020) – Đề tài nghiên cứu cấp học viện – Học viện Tài chính;
- Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, NXB. Đà Nẵng, 2000.