Tự chủ tài chính tại các trường cao đẳng công lập trước yêu cầu đổi mới giáo dục nghề nghiệp
Trong xu hướng chuyển sang cơ chế tự chủ, vấn đề khai thác nguồn tài chính và sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động của các trường cao đẳng công lập đóng vai trò rất quan trọng. Tự chủ tài chính ở mức độ cao giúp cho các trường cao đẳng công lập gia tăng nguồn thu và sử dụng nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu chi tiêu một cách hiệu quả đối với hoạt động của trường. Bài viết trao đổi về những vấn đề liên quan đến tự chủ tài chính tại các trường cao đẳng công lập, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính trong thời gian tới.
Nội dung cơ chế tự chủ tài chính các trường cao đẳng công lập
Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với cơ sở giáo dục công lập theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm là phù hợp với xu thế quốc tế và chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua.
Hiện nay, các quy định về cơ chế tự chủ tài chính đối với các trường cao đẳng công lập (CĐCL) trong xu hướng chuyển sang cơ chế giáo dục nghề nghiệp khá hoàn thiện như: Luật Giáo dục; Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 48/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 về quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục Nghề nghiệp...
Mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các trường CĐCL nhằm tăng cường tính tự chủ tự chịu trách nhiệm trong tổ chức, sắp xếp bộ máy, sử dụng nguồn lực lao động, tài chính, nâng cao chất lượng, tăng nguồn thu, thu nhập cho người lao động, giảm dần sự bao cấp đối với NSNN.
Đối tượng giao quyền tự chủ tài chính các trường CĐCL được chia thành 3 loại: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ chi phí cho hoạt động thường xuyên; Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự đảm bảo được một phần chi phí cho hoạt động thường xuyên; Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp hoặc được hỗ trợ 100% chi phí cho hoạt động thường xuyên. Bên cạnh đó, cơ chế tự chủ tài chính gồm các nội dung cơ bản sau:
- Tự chủ trong quản lý và khai thác nguồn thu: Nguồn thu của trường CĐCL là những kinh phí mà trường nhận được không phải hoàn trả theo quy định của pháp luật, phục vụ cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và hoạt động khác của trường CĐCL, bao gồm: Thu từ NSNN cấp, Thu từ hoạt động sự nghiệp của nhà trường; Thu từ viện trợ, quà biếu, cho tặng và các nguồn thu khác. Tự chủ tài chính cho phép các trường khai thác, quản lý nguồn thu theo đúng quy định của pháp luật và phải thực hiện công khai minh bạch về tài chính.
- Tự chủ trong quản lý chi tiêu: Chi tiêu của trường CĐCL là những khoản chi triển khai cho hoạt động của nhà trường bao gồm: Chi thường xuyên và chi không thường xuyên. Yêu cầu đối với tự chủ trong quản lý chi tiêu là đảm bảo định mức khoa học, tiêu chuẩn hợp lý, tiết kiệm, chính xác, trung thực và có hiệu quả.
Các trường CĐCL được phép gia tăng nguồn thu để tăng thu nhập tăng thêm cho cán bộ, viên chức theo quy chế chi tiêu nội bộ. Ngoài ra, trường CĐCL được phép trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, quỹ khen thưởng phúc lợi và quỹ dự phòng ổn định thu nhập...
- Tự chủ trong quản lý và sử dụng tài sản của nhà trường: Các trường CĐCL được giao quyền tự chủ trong mua sắm, khai thác tài sản, nâng cao năng suất hiệu quả sử dụng tài sản, mở rộng tạo nguồn thu cho trường… đảm bảo cho hoạt động của trường vừa nâng cao tính tiết kiệm, vừa giảm tình trạng lãng phí đối với quản lý và sử dụng tài sản.
Tác động cơ chế tự chủ tài chính đối với các trường cao đẳng công lập
Thực tế triển khai cơ chế tự chủ tài chính đối với các trường CĐCL trong cả nước thời gian qua cho thấy những tác động tích cực và hạn chế sau:
Tác động tích cực
Tự chủ tài chính giúp nâng cao khả năng cạnh tranh cho các trường CĐCL trong xu hướng giáo dục nghề nghiệp, góp phần cải thiện nâng cao chất lượng đào tạo.
Các trường CĐCL không ngừng tự đổi mới, nâng cao uy tín, danh tiếng, cải tiến nội dung chương trình giảng dạy nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội; Không ngừng tìm kiếm các cơ hội liên kết với các đối tác trong và ngoài nước nhằm nâng cao chất lượng và cung ứng nguồn nhân lực tốt cho xã hội.
Để tăng thêm nhiều nguồn thu, trường CĐCL cần mở thêm nhiều hình thức đào tạo ngắn hạn, dài hạn…, hợp đồng nghiên cứu khoa học, đáp ứng yêu cầu học tập của xã hội.
Cơ chế tự chủ thúc đẩy các trường CĐCL nâng cao hiệu quả hoạt động, làm tốt hơn các nhiệm vụ sứ mệnh của trường, giảm thời gian và chi phí vô ích. Giao quyền tự chủ tài chính cũng giúp các trường năng động, sáng tạo, chủ động làm tốt nhiệm vụ; mọi hoạt động đều gắn với trách nhiệm của trường sẽ có hiệu quả, năng suất, tiết kiệm chi phí hơn.
Bên cạnh đó, tự chủ tài chính giúp các trường tăng cường khai thác thêm nguồn thu, tiết kiệm chi tiêu, tăng thu nhập cho người lao động. Điều này tạo động lực cho cán bộ, viên chức nhà trường an tâm công tác, tập trung vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng giáo dục, thu hút sinh viên, nâng cao chất lượng đầu ra của trường.
Những tồn tại, hạn chế
Khi tự chủ tài chính ở mức độ cao, các trường CĐCL tập trung nhiều vào vai trò khai thác nguồn thu, gia tăng dịch vụ, tăng lợi nhuận... Khi đó, vấn đề công bằng xã hội đối với sinh viên nghèo (ví dụ hỗ trợ học phí cho sinh viên nghèo) có xu hướng bị mờ dần và mất đi.
Cơ chế này cũng có thể tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các trường có cùng ngành nghề, nội dung đào tạo. Các trường này cùng cạnh tranh với nhau để thu hút học viên, chất lượng nội dung chương trình đào tạo, cắt giảm thời gian nội dung chương trình đào tạo… nên dễ dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh để gia tăng lợi nhuận cho trường, từ đó làm ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Các trường chạy đua theo lợi nhuận, tăng nguồn thu cũng dễ dẫn đến vi phạm các quy định và quy chế đào tạo. Trong cuộc cạnh tranh các trường sẽ gia tăng quy mô đào tạo, tăng sinh viên, nới lỏng quy định trong tuyển sinh đầu vào và trong thời gian đào tạo, gây lãng phí và vi phạm quy chế đào tạo.
Khảo sát và khuyến nghị
Để nghiên cứu về thực trạng tự chủ tài chính tại các trường CĐCL, tác giả tiến hành thu thập dữ liệu bằng phát phiếu khảo sát, điều tra trực tiếp hoặc qua email đối với cán bộ quản lý tài chính, giảng viên từ 30 trường CĐCL trên phạm vi cả nước.
Ngoài ra, tác giả còn tìm hiểu thêm trên website các trường CĐCL để lấy số liệu về tổng thu, tổng chi, mức thu học phí, tiền lương, thu nhập tăng thêm của giảng viên… của 30 trường CĐCL để thu thập đầy đủ thông tin phục vụ nghiên cứu. Thông qua các kết quả khảo sát và nghiên cứu, có thể đánh giá mức độ hoàn thiện tự chủ tài chính các trường CĐCL dưới các góc độ như sau:
- Tính hiệu lực của cơ chế tự chủ tài chính: Các quy định về tự chủ tài chính đã có giá trị trong thực tế, phù hợp với xu hướng hội nhập của nước ta, song vẫn còn một số bất cập. Theo đó, tính đồng bộ với các cơ chế chính sách chưa cao, các quy định hướng dẫn còn chồng chéo, thời gian hiệu lực văn bản còn thấp, nhiều khi chưa thực hiện đã có văn bản mới thay thế.
Quy định về đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định chưa phù hợp với bản chất công tác đào tạo; Các trường chưa thực sự tự chủ trong sử dụng cơ sở vật chất được giao, đặc biệt là đất đai, tài sản để liên doanh, liên kết và cho thuê... Bên cạnh đó, hiện nay, các trường mới giao được một phần tự chủ tài chính trong tổ chức chi, cơ chế thu học phí và khung học phí vẫn còn rất thấp, chưa đủ bù đắp chi phí đào tạo và nâng cao chất lượng của trường.
Các văn bản còn thiếu nhất quán, còn cơ chế “xin, cho”, các trường không đủ nguồn để chi thu nhập tăng thêm, đời sống cán bộ viên chức chưa được cải thiện và gặp khó khăn hơn.
- Tính hiệu quả của cơ chế tự chủ về tài chính: Kết quả nghiên cứu cho thấy, quy mô tăng trưởng nguồn thu năm sau cao hơn so với năm trước. Tại 30 trường được khảo sát, nguồn thu năm 2011 tăng 22,23% so với năm 2010; Nguồn thu năm 2012 tăng 9,81% so với năm 2011.
Trong đó, nguồn thu các trường khối Y dược, Kỹ thuật công nghệ, Khoa học tự nhiên tương đối ổn định; Nguồn thu khối Nghệ thuật, Sư phạm rất thấp; Riêng các trường đào tạo về Kinh tế và Quản trị kinh doanh, nguồn thu năm 2012 so với 2011 bị giảm 5,79% do giảm chỉ tiêu đào tạo và giảm số thu từ NSNN…
- Thu nhập tăng thêm của cán bộ viên chức: Thu nhập cán bộ viên chức các trường CĐCL có tăng lên, song không cao. Thực tế cũng cho thấy, nếu so sánh thu nhập tăng thêm với tỷ lệ tăng trưởng lạm phát của nền kinh tế thì thu nhập tăng thêm của các trường CĐCL là không đáng kể.
Từ những vấn đề trên, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các trường CĐCL trong xu hướng chuyển sang cơ chế giáo dục nghề nghiệp, cụ thể:
Nhóm giải pháp nâng cao tính hiệu lực của cơ chế tự chủ tài chính:
- Các cơ quan liên quan cần đẩy mạnh thực hiện rà soát, xây dựng, ban hành các văn bản pháp lý giao quyền tự chủ tài chính nhằm giảm bớt chồng chéo, tạo khuôn khổ pháp lý khả thi để thực hiện.
- Tăng cường kiểm soát tài chính, gắn với quyền tự chủ tài chính của các trường CĐCL với trách nhiệm giải trình và công khai, minh bạch. Trong đó, kiểm soát tài chính được thực hiện qua nhiều cách: Kiểm toán độc lập các báo cáo năm và kế toán, thanh tra hoạt động qua kiểm toán nhà nước; Thiết lập cơ chế, quy trình đánh giá chất lượng giảng dạy...
- Nâng cao tính công khai, minh bạch hóa cơ chế tự chủ tài chính trong các hoạt động nội bộ của nhà trường bằng các công cụ hỗ trợ như: Sử dụng hệ thống ISO, Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ thông tin…
Nhóm giải pháp nâng cao tính hiệu quả cơ chế quản lý tài chính:
- Cơ chế tài chính cần khuyến khích các trường tìm kiếm, phát triển nguồn thu, tăng cường với phân bổ và sử dụng nguồn tài chính hiệu quả. Nhà trường có mối quan hệ thường xuyên và gắn kết với các doanh nghiệp trong nghiên cứu, đào tạo, phát triển chuyên môn nghề nghiệp về kiến thức lý thuyết lẫn thực hành.
- Các trường CĐCL cần chú trọng đến chính sách tiền lương, tiền công, thu nhập tăng thêm đối với giảng viên, giúp họ có đủ thu nhập để an tâm công tác và đầu tư gia tăng nhiều hơn chất lượng đào tạo đối với nhà trường.
- Đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị tốt nhằm phục vụ nâng cao chất lượng hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong nhà trường; Tăng cường quản lý tài sản nhà trường theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí.
- Tăng cường khai thác các nguồn thu khác từ hoạt động sản xuất - kinh doanh của nhà trường và nguồn thu từ đóng góp từ thiện của các tổ chức cá nhân cho trường.
- Đầu tư đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo trong xu hướng chuyển sang cơ chế giáo dục nghề nghiệp đối với hệ thống thư viện, phòng thí nghiệm, phòng thực hành. Tăng thêm giờ học thực hành, thí nghiệm… theo hướng vận dụng mô hình liên kết 3 bên: Trường CĐCL - nhà khoa học - doanh nghiệp.
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2005,2006,2014,2015), Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006, Nghị định 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015, Nghị định 48/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015;
2. Chính phủ (2005, 2014), Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005, Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014;
3. Trần Đức Cân (2012), ‘‘Cơ chế tự chủ tài chính các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam’’, Tạp chí Công nghiệp, tháng 3/2012;
4. Rothblatt, Sheldon (2002), ‘‘Các bài đọc về giáo dục đại học, cao đẳng Hoa kỳ’’, Giáo dục Khoa học xã hội, 2003.