Vì sao RCEP có sức mạnh và tiềm năng thương mại lớn?
Sáu quốc gia thành viên ASEAN (Brunei, Campuchia, Lào, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) cùng với bốn quốc gia đối tác là Trung Quốc, Nhật Bản, New Zealand và Australia - đã chính thức gửi văn kiện phê chuẩn Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) tới Ban Thư ký ASEAN, đưa hiệp định sẽ có hiệu lực vào đầu năm 2022. RCEP được cho là vượt ra ngoài khái niệm “hội nhập kinh tế khu vực”.
Tại sao RCEP được coi là hiệp định thương mại tự do (FTA) có tiềm năng phát triển cao nhất thế giới? Ý nghĩa của việc nó trở thành hiện thực là gì? Sau khi hiệp định có hiệu lực, nền kinh tế toàn cầu sẽ bước vào một kỷ nguyên mới của “thời kỳ châu Á” hay “thời kỳ châu Á - Thái Bình Dương”. Trong tương lai, khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ vẫn là cường quốc tăng trưởng kinh tế của thế giới và châu Á vẫn là nơi có quy mô sản xuất, cung cấp và tiêu dùng lớn nhất thế giới.
Khu vực RCEP sẽ trở thành khối thương mại tự do lớn nhất thế giới. Thỏa thuận bao gồm 3,5 tỷ người, tương đương 47,4% dân số thế giới. Tổng sản phẩm quốc nội tổng hợp của khu vực hiện đạt 26 nghìn tỷ USD, chiếm 32,2% tổng sản phẩm thế giới, trong khi ngoại thương của khu vực này chiếm 29,1% tổng thương mại quốc tế. Các số liệu trên bao gồm cả những con số của Ấn Độ. Mặc dù quốc gia Nam Á đã quyết định dừng tham gia hiệp định này vào năm 2019, nhưng RCEP luôn hoan nghênh sự trở lại của quốc gia này.
Quan trọng hơn, khu vực RCEP được tạo thành từ các nền kinh tế đa dạng có trình độ phát triển khác nhau, cũng như các hệ thống chính trị và xã hội khác nhau. RCEP đạt được vào thời điểm khó khăn với những thách thức từ Covid-19 và tâm lý chống toàn cầu hóa, được kỳ vọng sẽ thúc đẩy một vòng toàn cầu hóa kinh tế mới thông qua thúc đẩy thương mại tự do. Việc thực hiện thỏa thuận cũng sẽ thúc đẩy các động thái của các công ty công nghệ công nghiệp toàn cầu, vốn và nhân tài đối với Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN, cũng như Trung Quốc.
Các thành viên của RCEP có các trình độ phát triển khác nhau và thị trường khổng lồ của Trung Quốc rất hấp dẫn đối với những người khác. Hiệp định cũng sẽ có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế khu vực và bố trí chuỗi cung ứng và công nghiệp. Một mặt, nó sẽ đẩy nhanh việc mở rộng và phát triển sâu rộng các chuỗi cung ứng và công nghiệp trong khu vực.
Mặt khác, hiệp định sẽ cung cấp các đảm bảo về thể chế cho sự ổn định của các chuỗi cung ứng và công nghiệp trong khu vực. Các FTA giữa các nước trong khu vực chủ yếu điều chỉnh thương mại hàng hóa. RCEP mở rộng sang các lĩnh vực thương mại dịch vụ, đầu tư và sự phù hợp của các quy tắc trong nước với hiệp định, sẽ phù hợp hơn với xu thế hội nhập kinh tế khu vực. Ở góc độ này, RCEP đã vượt ra ngoài khái niệm “hội nhập kinh tế khu vực”.
Việc Ấn Độ rút khỏi RCEP trong giai đoạn đàm phán cuối cùng là điều dễ hiểu, có lẽ vì lo ngại ảnh hưởng của RCEP đối với thị trường trong nước. Trong một khối thương mại tự do, luồng hàng hóa là tự do, không có hàng rào thuế quan, và nếu một quốc gia không thể tự sản xuất một sản phẩm thì việc tham gia một FTA sẽ chỉ khiến quốc gia đó phụ thuộc nhiều hơn vào nhập khẩu. RCEP hoan nghênh Ấn Độ bất cứ khi nào nước này sẵn sàng và một khi Ấn Độ nhận thấy những lợi ích của RCEP có hiệu lực, nước này có thể trở lại.
Mỗi hiệp định hoặc thỏa thuận thương mại ưu đãi đều có danh mục cắt giảm thuế quan và quy tắc xuất xứ riêng, hoặc các tiêu chí cần thiết để xác định nguồn gốc quốc gia của sản phẩm và một sản phẩm sẽ có các mức cắt giảm thuế quan khác nhau và tuân thủ các quy tắc xuất xứ khác nhau theo các FTA khác nhau. Với việc thực hiện RCEP, 90% hàng hóa giao dịch trong khu vực sẽ được hưởng mức thuế bằng 0. Trung Quốc đã cam kết mở cửa hoàn toàn 86-90% hàng hóa, và tự do hóa thuế quan chiếm khoảng 90% tất cả các mặt hàng bị đánh thuế đối với 10 quốc gia thành viên ASEAN, cũng như Australia và New Zealand.
Ngoài Lào, Campuchia và Myanmar, các quốc gia khác đã cam kết tự do hóa thuế quan đối với mặt hàng tương tự hoặc cao hơn một chút. Đáng chú ý là RCEP và các FTA khác trong khu vực bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau. RCEP có những cắt giảm thuế quan đối với những sản phẩm mà những sản phẩm khác không áp dụng và ngược lại. Quy tắc xuất xứ cộng gộp, sử dụng giá trị khu vực tích lũy để xác định xuất xứ của một sản phẩm trong khu vực, là thành tựu quan trọng nhất của RCEP trong thương mại hàng hóa.
Không giống như các quy tắc xuất xứ song phương được áp dụng bởi hầu hết các FTA, với RCEP, khi một sản phẩm được đưa vào quốc gia B từ quốc gia A, các sản phẩm trung gian của nó từ các thành viên ký kết có thể tích lũy để đáp ứng các giá trị hoặc yêu cầu sản xuất để được giảm thuế, do đó nó sẽ được dễ dàng hơn để các sản phẩm được hưởng mức thuế bằng 0.
Ngoài ra, các thành viên RCEP đã đạt được các quy tắc cấp cao về tạo thuận lợi thương mại về thủ tục hải quan, kiểm tra và kiểm dịch và tiêu chuẩn kỹ thuật. Khi các quy định này có hiệu lực, hiệp định sẽ giảm đáng kể chi phí thương mại trong khu vực, tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong khu vực và khơi thông nhu cầu thương mại hơn nữa, do đó mang lại nhiều cơ hội kinh doanh hơn cho doanh nghiệp và nhiều lựa chọn và lợi ích hơn cho khách hàng.
Các thành viên của RCEP bao gồm các nền kinh tế phát triển, đang phát triển và kém phát triển, tất cả đều tập trung vào những điểm yếu của riêng mình và hy vọng hiệp định sẽ phù hợp hơn với lợi ích của họ. Trong thời gian đàm phán RCEP, một số quốc gia lo ngại rằng họ có thể không chịu được việc cắt giảm thuế quan được thực hiện quá nhanh và trên diện rộng, và ưu tiên tập trung vào bảo vệ thị trường trong nước. Ngoài ra, cơ cấu công nghiệp của các nước cũng khác nhau, mang những đặc điểm riêng biệt.
Ví dụ, Ấn Độ có năng lực sản xuất tương đối yếu, nhưng lại mạnh trong lĩnh vực dịch vụ. Do đó, nước này hy vọng sẽ tối đa hóa mức độ mở cửa trong lĩnh vực dịch vụ trong khi giảm thiểu mở cửa đối với các lĩnh vực khác. Hàn Quốc và Nhật Bản muốn lĩnh vực nông nghiệp của họ được bảo vệ, trong khi Trung Quốc muốn lĩnh vực dịch vụ dần dần được mở cửa. Các quốc gia tham gia đàm phán có hệ thống chính trị và xã hội khác nhau, trình độ phát triển khác nhau và nhu cầu khác nhau.
RCEP cũng sẽ định hình lại quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Việc ký kết hiệp định đánh dấu việc thiết lập quan hệ thương mại tự do trực tiếp giữa hai bên lần đầu tiên. Trong ba thập kỷ đầu tiên sau khi Trung Quốc bắt đầu cải cách và mở cửa, đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc chủ yếu theo kiểu “tái xuất khẩu”, tức là đầu tư vào Trung Quốc, sau đó xuất khẩu các sản phẩm được sản xuất ở Trung Quốc sang nơi khác.
Sau đó, khi thị trường nội địa của Trung Quốc mở rộng, một số doanh nghiệp Nhật Bản bắt đầu tập trung vào thị trường riêng của Trung Quốc với các khoản đầu tư của họ. Theo thống kê từ Nhật Bản, 45% doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Trung Quốc để xuất khẩu các sản phẩm được sản xuất tại đây, trong khi 35% đầu tư vào Trung Quốc cho thị trường Trung Quốc và 20% thực hiện cả hai hình thức này.
Nhiều nhà đầu tư Nhật Bản mong muốn chuyển từ đầu tư tái xuất sang đầu tư tập trung vào thị trường Trung Quốc, và với RCEP, họ có thể thúc đẩy tốt hơn chiến lược này. Hơn nữa, trong khi việc cả Trung Quốc và Nhật Bản tham gia RCEP sẽ định hình lại quan hệ kinh tế giữa hai nước, thì hợp tác kinh tế và thương mại sẽ trở nên chặt chẽ hơn khi Trung Quốc dự kiến tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương trong tương lai.