Việt Nam xuất khẩu vải, nhãn đứng nhì thế giới
Việt Nam hiện có khoảng 160.000 ha nhãn, vải, chôm chôm, cho sản phẩm xuất khẩu đem về hơn 320 triệu USD năm 2018...
Theo số liệu công bố tại Hội nghị quốc tế về nhãn vừa được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam hiện có khoảng 160.000 ha nhãn, vải, chôm chôm... cho sản phẩm xuất khẩu đem về hơn 320 triệu USD năm 2018, đứng thứ hai thế giới về thị phần vải xuất khẩu.
Đại diện Hội Nghề vườn quốc tế, GS.TS. Sisir Kumar Mitra cho biết, trong các loại trái cây, vải là loại quả được ưa chuộng nhiều nhất, nhu cầu tiêu dùng rất lớn. Trung Quốc đứng đầu với sản lượng hơn 2 triệu tấn/năm, thứ hai là Ấn Độ với 677 nghìn tấn/năm, Việt Nam đứng thứ ba với sản lượng 380 nghìn tấn/năm, tiếp theo là Thái Lan với 48 nghìn tấn/năm và Bangladesh với khoảng 12 nghìn tấn/năm. Tại Trung Quốc, vải được trồng tập trung tại khu vực phía nam của nước này.
Mặc dù có diện tích vải đứng thứ 2 thế giới (sau Trung Quốc), tuy nhiên trên 99% lượng vải quả tươi của Ấn Độ là tiêu thụ nội địa tại chỗ, nên Ấn Độ hầu như chưa tham gia xuất khẩu trái vải.
Quốc gia xuất khẩu vải lớn nhất thế giới hiện nay không phải là các nước có diện tích canh tác vải lớn, mà lại là Madagascar, chiếm tới 35% thị phần vải xuất khẩu thế giới. Tiếp theo là Việt Nam, chiếm 19% thị phần thương mại trái vải toàn cầu; Trung Quốc chiếm 18%, Thái Lan chiếm 10% và Nam Phi chiếm 9%.
Theo đánh giá của người tiêu dùng và các doanh nghiệp thương mại vải trên thế giới, hiện chất lượng quả vải của Việt Nam được đánh giá là tốt nhất thế giới, ngon hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại từ Ấn Độ, Trung Quốc...
Theo ông Lê Quốc Doanh, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nhãn, vải và một số loại quả thuộc họ bồ hòn đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nhiều quốc gia. Với nhu cầu các loại hoa quả tươi và chế biến đang ngày một tăng cao trên thị trường quốc tế, đây chính là triển vọng lớn cho sản xuất quả vải, nhãn và một số loài cây thuộc họ bồ hòn nói chung tại Việt Nam cũng như các nước sản xuất mặt hàng này. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của vải, nhãn và chôm chôm của Việt Nam đạt 324,4 triệu USD, chiếm 10,4% của tổng kim ngạch xuất khẩu các loại trái cây.
Chia sẻ về sản xuất vải của địa phương, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bắc Giang, ông Nguyễn Viết Toàn cho hay, Bắc Giang có trên 28.000 ha vải, cho sản lượng trên 90.000 tấn mỗi năm. Đặc biệt, Bắc Giang có thương hiệu "Vải thiều Lục Ngạn" đã xuất khẩu và có mặt tại các thị trường như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Pháp, Australia, các nước Đông Nam Á; đang được bảo hộ nhãn hiệu tại 8 quốc gia là Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Australia, Hàn Quốc, Singapore, Lào, Campuchia.
Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Viện trưởng Nghiên cứu rau quả, nhãn, vải Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với sản lượng của Trung Quốc. Tuy nhiên, do thời vụ thu hoạch, chất lượng cao hơn, nên chúng ta đã xuất khẩu sản phẩm nhãn, vải rất mạnh sang Trung Quốc, và ra nhiều thị trường thế giới.
Những năm qua, nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được đưa vào áp dụng trong sản xuất các loại quả đặc sản này của Việt Nam. Tuy nhiên, sản phẩm nhãn, vải chế biến chỉ chiếm 10% tổng sản lượng sản phẩm, tiêu thụ chủ yếu vẫn là sản phẩm tươi.
"Sản phẩm tươi sẽ luôn phải chịu yêu cầu khắt khe về chất lượng truy xuất nguồn gốc, kiểm dịch của các thị trường nhập khẩu. Điển hình thị trường Trung Quốc cũng ngày càng thắt chặt trong việc kiểm dịch, dán nhãn, truy xuất nguồn gốc. Do đó, Việt Nam phải luôn cập nhật cũng như nghiêm túc thực hiện các yêu cầu đó để sản phẩm có thể vào được các thị trường. Sản phẩm chế biến không phải kiểm dịch nhưng đòi hỏi phải có các doanh nghiệp đầu tư để có thể chế biến được sản phẩm sâu cũng như việc tiếp thị sản phẩm để thị trường quen với sản phẩm từ nhãn vải. Việt Nam cần làm tốt hơn nữa chất lượng của sản phẩm chế biến cũng như quảng bá sản phẩm đến với người tiêu dùng để họ từng bước quen với sản phẩm chế biến từ nhãn, vải", ông Hùng khuyến cáo.
Ông Nguyễn Văn Phong, chuyên gia đến từ Viện Cây ăn quả miền Nam cho biết, hiện nay số hộ trồng chôm chôm, vải, nhãn quy mô nhỏ chiếm tới 70% tổng sản lượng toàn quốc. Hệ thống quản lí kém và chủ yếu bán cho thương lái nên tổn thất nhiều trong quá trình thu hái. Cụ thể, tỷ lệ tổn thất lên tới 25 - 30%. Đôi khi con số này lên tới 50%. Tỷ lệ này giảm một chút, khoảng 11 - 35%, đối với các hộ nông dân nhỏ tham gia vào hợp tác xã để có qui mô sản xuất lớn.
Bên cạnh đó, quá trình bảo quản sau khi thu hái cũng là một vấn đề lớn khi mới chỉ dừng ở mức độ thủ công. Chúng ta cũng đang gặp một số khó khăn về kỹ thuật canh tác, công nghệ sau thu hoạch. Do chưa có giải pháp bảo quản, nên gặp khó khăn ở khâu vận chuyển, vải tươi xuất khẩu chủ yếu đưa đi bằng đường máy bay, cước phí vận chuyển rất đắt.