Áp lực tỷ giá vẫn còn!
Sau những cú sốc nặng điều chỉnh tỷ giá trong năm 2015, thị trường đã đi vào ổn định nhưng các chuyên gia dự báo tỷ giá VND và USD vẫn còn biến động mạnh trong năm 2016. Những tác động bên ngoài như đồng Nhân dân tệ phá giá, USD tăng giá khiến cho Việt Nam đồng buộc phải điều chỉnh theo.
Thời gian qua, tỷ giá biến động rất mạnh, có khi tăng, giảm rất thất thường. Với diễn biến như trên, nhiều người lo ngại, tỷ giá USD/VND rơi vào một đợt căng thẳng mới. Lo ngại này xuất hiện sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Janet Yellen phát đi tín hiệu sẽ nâng lãi suất đồng USD vào tháng 12 tới dù lạm phát Mỹ liên tục ở dưới mức mục tiêu của Fed. Đồng USD đã liên tục tăng giá so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt như yen Nhật, euro, bảng Anh…
Tăng, giảmbất thường
Hiện, đồng USD trên thế giới vẫn liên tục tăng giá so với các đồng tiền chủ chốt sau phát biểu khá chắc chắn của Chủ tịch Fed. Đồng USD đã tăng hơn 1% so với yen trong hai phiên qua, tăng 1,2% so với bảng Anh và tăng thêm 0,2% so với Euro.
Việc Fed có thể tăng lãi suất vào cuối năm nay hoặc đầu năm sau, chấm dứt 6 năm áp dụng lãi suất gần bằng 0%, có lẽ là một diễn biến bình thường, hợp lý. Fed sẽ không còn nuông chiều, chấm dứt bơm vá nền kinh tế Mỹ khi mà nền kinh tế này đã phục hồi. Đồng USD sẽ mạnh lên so với đồng tiền các nước khác. Với Việt Nam, sức ép đối với đồng VND cũng rất lớn.
Trong một báo cáo gần đây, các chuyên gia kinh tế HSBC dự báo, tỷ giá USD/VND sẽ lên mức 22.800 đồng cuối 2015 và trong năm 2016 sẽ đạt mức 23.300 đồng/USD. Ngân hàng ANZ cho rằng, đồng USD có thể lên tới mốc 23.900 đồng trong quý IV/2016 và lên 24.000 đồng trong quý I/2017.
Công ty chứng khoán HSC cũng nhận định, tỷ giá USD/VND có thể điều chỉnh 3-4% trong 2016 khi Fed tăng lãi suất. Việc điều chỉnh tỷ giá có lẽ là cần thiết khi chúng ta không thể muốn tất cả từ tăng trưởng kinh tế cao, giữ được dự trữ ngoại hối tương đối, đón FDI nhiều và thúc đẩy thương mại phát triển.
Trên thực tế, đồng USD đang mạnh lên so với hầu hết các đồng tiền khác. So với các nước trong khu vực và cả trên thế giới, đồng VND khá ổn định. Các đồng tiền như baht của Thái Lan, ringgit của Malaysia, kyat của Myanmar… đều giảm từ 5 đến 20%.
Kinh tế Việt Nam được dự báo là điểm sáng hiếm hoi, cùng với Ấn Độ và Philippines, trong bức tranh ảm đạm của hầu hết các nền kinh tế mới nổi. Tăng trưởng GDP được nhiều tổ chức dự báo đạt khoảng 6,8% trong năm 2015 và 6,9% trong năm 2016. Lạm phát ở mức thấp. FDI vẫn mạnh và sẽ làm tăng năng suất trong dài hạn. Thâm hụt cán cân vãng lai không thực sự đáng lo ngại.
Theo quan điểm của HSC, việc FED giữ lãi suất 0% là không bình thường. Theo HSC, ảnh hưởng đối với thị trường Việt Nam sẽ phụ thuộc vào việc FED sẽ tăng lãi suất một lần hay nhiều lần. Nếu FED chỉ tăng lãi suất 1 lần khoảng 0,25% thì điều này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam. Song nếu FED tăng lãi suất nhiều đợt thì đây sẽ là thông tin không tốt.
Hiện, Việt Nam đang neo tỷ giá và có nợ công cao. Trong trường hợp của Việt Nam, mức độ ảnh hưởng sẽ tâp trung ở tỷ giá neo vào đồng USD và hiện dự trữ ngoại hối còn mỏng và nợ công đang ở mức cao.
Đối phóthế nào?
Tuy nhiên, HSC cho rằng việc FED tăng lãi suất một lần sẽ khả dĩ hơn là tăng nhiều lần liên tiếp. Đặc biệt là khi nhu cầu thế giới đang yếu đi và hàng hóa cơ bản chưa có dấu hiệu chạm đáy. Việc FED tăng lãi suất là nhằm đưa lãi suất về mặt bằng bình thường hơn là do lo ngại áp lực lạm phát tiềm ẩn.
HSC cho rằng lợi suất trái phiếu chính phủ sẽ tăng 0,5% trong năm. Lãi suất huy động và cho vay kỳ hạn ngắn cũng tăng ở mức tương tự. Tăng trưởng tín dụng năm 2016 sẽ giảm xuống 15% và tăng trưởng cung tiền M2 sẽ khoảng 17%.
Nhằm tránh tác động đột ngột như đồng Nhân dân tệ bị phá giá thì NHNN có thể chủ động với nhiều phương án khác nhau nhằm ổn định thị trường tài chính. NHNN đã cam kết đến cuối năm không nới biên độ tỷ giá, nhưng sang đầu năm sau thì sức ép này là rất lớn. Việc điều chỉnh tỷ giá là lường trước mọi tình huống khó khăn, tạo ra vị thế cạnh tranh của Việt Nam đồng ở mức linh hoạt, để đáp ứng với những diễn biến của thị trường.
Theo NHNN, thị trường tỷ giá biến động chủ yếu do tâm lý và có thể là do tin đồn để đầu cơ, trục lợi. NHNN đã cân nhắc rất kỹ nên mới quyết định điều chỉnh một mức tương đối lớn để tồn tại trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, khi tỷ giá nóng và căng thẳng, NHNN đã phải bán ngoại tệ để ổn định thị trường. Việc này dẫn đến nguy cơ hao hụt quỹ dự trữ ngoại hối và rủi ro về thanh khoản. Cho nên, điều chỉnh tỷ giá vừa ổn định thị trường, vừa giúp bảo toàn quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.
Vì vậy, sự điều chỉnh tỷ giá của NHNN là cần thiết để giúp thị trường lấy lại cân bằng. Tuy nhiên, một khi tỷ giá tăng, càng làm cho nợ công “phình” to lên.