Bàn về cải cách, hiện đại hóa ngành Hải quan
Cải cách và hiện đại là một yêu cầu cấp bách của Chính phủ đặt ra cho ngành trong xu thế chung. Bên cạnh đó, Hải quan còn chịu những áp lực từ bên ngoài đòi hỏi phải thay đổi toàn diện nhằm đáp ứng nhanh chóng với các nhu cầu của thương mại quốc tế ngày càng tăng và thách thức của môi trường ngày càng phức tạp do quá trình hội nhập và toàn cầu hoá mang lại.
Sự cần thiết của cải cách và hiện đại hóa hải quan
Khu vực công thường “cố thủ” trong “lô cốt an toàn” với ưu thế độc quyền, đặc quyền, đặc lợi chiếm lĩnh thị trường cung cấp các hàng hoá dịch vụ công gần như không có cạnh tranh. Nó đóng vai trò “độc diễn” và “tự khen mình” và “đòi hỏi” được nuông chiều trong nôi “quan liêu, bao cấp”. Vì vậy, nó ít khi quan tâm đến những khái niệm như “thoả mãn khách hàng”, “nâng cao chất lượng”, “cải tiến phương pháp”… những khái niệm mà khu vực tư luôn phải đáp ứng nếu muốn tồn tại. Chính những khuyết tật cố hữu đó đã làm cho bản chất của nền hành chính công kiểu cũ chậm trễ, trì trệ và thậm chí nội tại nó không có nhu cầu thay đổi, cải cách và hiện đại hoá chính mình. Tuy nhiên, cùng với thời gian các áp lực cả về chính trị và kinh tế đã buộc khu vực “thủ cựu” này phải thay đổi tư duy và hành động của mình nhằm tránh khỏi một kết cục mà có thể phải trả giá bằng chính sự tồn tại của nó. Trên thực tế, khu vực công không thể còn duy trì “quản lý cơ học” bằng cách “trói buộc” các hoạt động kinh tế xã hội “theo kiểu quan liêu, bao cấp” như trước khi mà nhu cầu nội tại của nền kinh tế xã hội đã chuyển mình mạnh mẽ cùng với tốc độ phát triển khoa học công nghệ và phương pháp quản lý. Chính vì vậy, các chính phủ đã nhận thức cần phải thay đổi, cải cách và hiện đại hoá khu vực công để đảm đương vai trò quản lý nhà nước, đối phó hiệu quả và hiệu lực hơn với sự thay đổi nhanh chóng và khách quan của đời sống kinh tế, xã hội. Khuynh hướng cải cách và hiện đại hoá các cơ quan chính phủ trở thành đòi hỏi cấp bách đối với tất cả các quốc gia muốn khẳng định vai trò quản lý nhà nước một cách hiệu quả, hiệu lực trong khuôn khổ nền kinh tế thị trường.
Với tư cách là cơ quan chính phủ để cung cấp dịch vụ công về hải quan, cơ quan Hải quan đương nhiên có những đặc thù của “cơ quan công quyền, quan liêu, bao cấp, bảo thủ và trì trệ”, vì vậy cải cách và hiện đại là một yêu cầu cấp bách của Chính phủ đặt ra cho ngành trong xu thế chung. Bên cạnh đó, Hải quan còn chịu những áp lực từ bên ngoài đòi hỏi phải thay đổi toàn diện nhằm đáp ứng nhanh chóng với các nhu cầu của thương mại quốc tế ngày càng tăng và thách thức của môi trường ngày càng phức tạp do quá trình hội nhập và toàn cầu hoá mang lại.
Với đặc thù của cơ quan quản lý biên giới, hoạt động quản lý và cung cấp “dịch vụ công” của Hải quan tác động mạnh mẽ đến quá trình thuận lợi hoá thương mại quốc tế. Vì vậy, áp lực đầu tiên đối với ngành Hải quan phải kể đến là sự phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế như hệ quả của quá trình ứng dụng những tiến bộ như vũ bão của khoa học, kỹ thuật công nghệ và đặc biệt công nghệ thông tin trong sản xuất, thương mại và dịch vụ diễn ra ở phạm vi quốc tế. Sự thay đổi trong phương thức thương mại khiến cho quá trình giao dịch thương mại gần như “không có khoảng cách” và nó xẩy gần như “mọi lúc và mọi nơi”. Quá trình này kéo theo nhu cầu phân công hoá lao động, chuyên môn hoá ngày càng cao trong phạm vi quốc tế đối với trao đổi thương mại. Số lượng và chất lượng các bên tham gia với các vai trò khác nhau đảm bảo dây chuyền cung cấp hàng hoá quốc tế ngày càng tăng trưởng. Kết quả là thương mại đã thay đổi nhanh chóng, phát triển về cả số lượng và chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các bên tham gia, không còn nguyên bản chất của thương mại 30, 40 năm trước. Thương mại vừa đơn giản vừa phức tạp, đa dạng và phong phú hơn trước rất nhiều. Đơn giản vì nó dường như “nhanh, gọn, dễ dàng hơn” nhưng “phức tạp” đối với quản lý vì có nhiều bên tham gia vào quá trình này và đa dạng, phong phú về phương thức cung cấp. Điều này buộc ngành Hải quan phải có nhiều thay đổi, cải cách và hiện đại hoá ngành nhằm đảm đương vai trò quản lý “mới” trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của thương mại.
Việc tham gia vào nền thương mại thế giới giúp cho các quốc gia có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế, những quốc gia hội nhập nhanh chóng với nền kinh tế toàn cầu chính là những nước có khả năng đạt tốc độ tăng trưởng cao. Toàn cầu hoá và hội nhập khu vực đã làm thị trường hàng hoá và dịch vụ ngày càng mở rộng và dường như không có biên giới, tạo ra thị trường cho thương mại quốc tế phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, để tận dụng hết những cơ hội quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cũng như vượt qua những thách thức mà quá trình này đặt ra, sức cạnh tranh của nền kinh tế trong nước cần phải được nâng cao. Số lượng các hiệp định, thoả thuận quốc tế liên quan đến thương mại ngày càng gia tăng nhanh chóng như việc hình thành các khu vực FTA, các khối liên minh hải quan, các trục phát triển, các diễn đàn hợp tác kinh tế và thậm chí cả cấp độ hội nhập cao như Liên minh Châu Âu. Điều này đồng nghĩa các rào cản thuế quan và phi thuế quan phải ngày càng giảm dần và xoá bỏ. Bên cạnh đó, các quốc gia phải cam kết vào các quá trình cải cách, thay đổi để đảm bảo tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu hoá hoạt động kiểm soát nhằm đảm bảo tạo thuận lợi tối đa thương mại hoạt động trong khuôn khổ các hiệp định, thoả thuận. Đương nhiên, thủ tục hải quan được xem là rào cản phi thuế, vì vậy nó cần được thay đổi, cách tân quy trình thủ tục theo các chuẩn mực quốc tế và đáp ứng các cam kết quốc tế. Đây là yêu cầu cấp thiết nhưng mang đầy tính thách thức với ngành Hải quan khi tiến hành các cải cách theo con đường hội nhập, đặc biệt với các nước đang hoặc kém phát triển khi mà nguồn lực cho cải cách còn quá hạn hẹp.
Ngoài ra, một áp lực lớn đối với hoạt động của Hải quan là phải đối phó hiệu quả với mặt trái của quá trình phát triển, mở cửa hội nhập về thương mại quốc tế. Cùng với mở cửa hội nhập, tạo thuận lợi, hoạt động buôn lận, gian lận, trốn thuế, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp. Bên cạnh đó, khi bối cảnh thế giới có sự thay đổi với sự xuất hiện và gia tăng nhanh chóng của nguy cơ khủng bố quốc tế và tội phạm xuyên quốc gia, vai trò cũng như chức năng nhiệm vụ của cơ quan hải quan phải có những thay đổi kịp thời để đối phó hữu hiệu với các hoạt động này nhằm bảo vệ nguồn thu cho ngân sách, bảo vệ lợi ích cộng đồng.
Nói tóm lại, nếu ngành Hải quan không có những thay đổi kịp thời thì bản thân nó không đáp ứng với phát triển thương mại mà còn trở thành rào cản lớn đối với thương mại, không đối phó hiệu quả với các tác động bất lợi như buôn lận, giân lận, khủng bố, do đó không làm tròn chức năng bảo vệ nguồn thu và lợi ích cộng đồng, vô tình ngăn cản sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Vì vậy, con đường duy nhất để giải quyết bài toán gần như mâu thuẫn trong sứ mệnh của ngành Hải quan là tạo thuận lợi tối đa cho thương mại quốc tế vừa đảm bảo an ninh quốc gia, thực thi pháp luật và bảo vệ được các lợi ích chung của cộng đồng, hải quan cần phải nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực các hoạt động của mình thông qua những nỗ lực cải cách và hiện đại hóa.
Đầu tiên, chính phủ và ngành hải quan phải đặt ra quyết tâm chính trị đối với cải cách và hiện đại hoá như sứ mệnh sống còn của ngành, xác định là nhiệm vụ trọng tâm của ngành trong quá trình thúc đẩy và phục vụ tốt nhất cho sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, công cuộc cải cách cần phải được thực hiện trên cơ sở nhận thức đúng đắn về môi trường hoạt động của hải quan và phải nhận được sự hỗ trợ từ phía chính phủ dưới dạng cam kết chính trị để có thể vượt qua những khó khăn và thách thức trong quá trình triển khai áp dụng các biện pháp mới. Từ quyết tâm chính trị, ngành Hải quan cần tự mình nhận thức và thay đổi tư duy quản lý, xác định chiến lược phục vụ, trở thành người cung cấp dịch vụ công về hải quan, người quản lý nhằm tạo thuận lợi cho thương mại hợp pháp như vai trò chính của ngành. Bên cạnh đó, Hải quan cần thay đổi tư duy về phương pháp quản lý để đảm bảo vừa tạo thuận lợi vừa nâng cao tính tuân thủ. Điều mấu chốt của vấn đề là xác định rõ tầm nhìn, sứ mệnh, nhiệm vụ của ngành trong chiến lược phát triển cải cách và hiện đại hoá, và tiến hành với tư duy “mới”, xoá bỏ những phương pháp “kiểm soát truyền thống”.
Tuy nhiên, do là cơ quan chính phủ, Hải quan cũng chịu chi phối bởi nguồn lực hạn hẹp và có khuynh hướng ngày càng giảm. Đây chính là áp lực lớn đối với hoạt động của Hải quan. Nhiệm vụ đặt ra đối với công cuộc cải cách và hiện đại hoá Hải quan là nâng cao chất lượng dịch vụ công về hải quan đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của doanh nghiệp, công dân nhưng phải tiết kiệm tối đa nguồn lực. Chính vì vậy, giải quyết bài toán mâu thuẫn giữa áp lực công việc tăng lên về số lượng và độ phức tạp, do yêu cầu ngày càng nhiều từ cả chính phủ và doanh nghiệp; trong khi đó nguồn lực công rất hạn chế và giảm dần đòi hỏi phải thay đổi tư duy quản lý bằng cách tập trung nguồn lực vào các rủi ro, không thể và không cho phép dàn trải theo kiểu cũ kém hiệu quả và hiệu lực. Điều này đòi hỏi Hải quan phải áp dụng các công nghệ, khoa học kỹ thuật mới, ứng dụng tối đa công nghệ thông tin để thay đổi, hợp lý hoá quy trình thủ tục tiết kiệm chi phí cho cả Hải quan và doanh nghiệp. Như vậy, cải cách và hiện đại hoá phải đi liền quá trình áp dụng các phương pháp quản lý khoa học, lôgíc và phù hợp với thương mại, giảm các chi phí, tiết kiệm nguồn lực và nâng cao chất lượng dịch vụ công. Vai trò ứng dụng khoa học, công nghệ vào phương pháp, kỹ thuật quản lý của Hải quan là vô cùng quan trọng để tiến hành thành công cải cách và hiện đại hóa.
Trong bối cảnh thương mại thế giới ngày một phát triển với sự gia tăng nhanh chóng của các hiệp định tự do thương mại và không ngừng cắt giảm hàng rào thuế quan, Hải quan có thể góp phần tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp của nước mình thông qua việc tạo thuận lợi thương mại, giúp các doanh nghiệp giảm thiểu tối đa các chi phí nhờ áp dụng các qui trình thủ tục hải quan hiện đại, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, các cam kết hội nhập. Tham gia vào sân chơi rộng lớn, có cả cơ hội và thách thức, Hải quan phải nhận thức rõ vai trò của mình trong “cộng đồng hải quan thế giới”, không thể tách mình ra để tìm một cách cải cách cho riêng mình. Hải quan chỉ có thể thành công trong cải cách nếu tìm ra hướng đi đúng đảm bảo lợi ích kinh tế của quốc gia, đóng góp tích cực và chủ động trong việc xây dựng và thực hiện các cam kết và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến hoạt động hải quan như Công ước Kyoto sửa đổi, Công ước quốc tế về Hệ thống mã hóa và mô tả hài hòa hàng hóa, Hiệp định về Trị giá hải quan, Hiệp định về hài hoà Quy tắc xuất xứ hàng hóa...v.v.
Cải cách và hiện đại hoá bao giờ cũng dễ vấp phải các lực cản nhất định từ ngay nội bộ ngành và từ bên ngoài khi mà động chạm đến “đặc quyền, đặc lợi” của nhóm nhất định. Điều này đòi hỏi quá trình cải cách phải được tuyên truyền, vận động đến từng cá nhân, tạo ra cơ sở nhận thức đồng nhất, thấy được những lợi ích lâu dài và hy sinh trước mắt, đề ra các phương án giải quyết dân chủ và thoả đáng đối với nhóm lợi ích hợp pháp bị tổn thương do cải cách, tranh thủ sự đồng tình của đa số. Tuy nhiên, cải cách luôn đòi hỏi phải thực hiện những thay đổi triệt để và quyết liệt, thậm chí là những thay đổi về cắt giảm nhân sự, cách chức các quan chức lãnh đạo cấp cao hay cán bộ hải quan tham nhũng hoặc làm việc không hiệu quả. Nếu nhận thức không đầy đủ, không có quyết tâm và không có tầm nhìn chiến lược, các mục tiêu cải cách quan trọng như giảm bớt nạn tham nhũng và hỗ trợ thương mại có thể không được chuyển hóa thành các chương trình cụ thể, thậm chí bị gạt sang một bên để ưu tiên cho mục tiêu tăng thu ngân sách. Cải cách hải quan còn xuất phát từ mong muốn giảm chi phí kinh doanh và tăng tính minh bạch cho các hoạt động kinh doanh của công đồng doanh nghiệp cũng như mong muốn xóa bỏ tận gốc tệ nạn tham nhũng đối với doanh nghiệp và công dân.
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho cải cách là yếu tố quyết định vì “con người luôn giữ vai trò trung tâm của các hoạt động”. Mọi phương pháp quản lý chiên lược đều xác định vai trò quyết định của nhân lực vì vậy cải cách và hiện đại hoá Hải quan cũng phải xác định công tác tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm và sử dụng đội ngũ cán bộ dựa trên nguyên tắc “quản lý xây dựng năng lực”, từ bỏ lối mòn “bầu cử, bỏ phiếu theo ý kiến chủ quan mà không quan tâm thích đáng đến yêu cầu năng lực, khả năng của người khi đảm đương nhiệm vụ”. Như vậy, chiên lược phát triển nguồn nhân lực phải được xác đinh chi tiết dựa trên yêu cầu của cải cách và hiện đại hoá.
Vấn đề quan trọng cần xem xét khi thực hiện cải cách là xây dựng mối quan hệ phối hợp, hợp tác nhiều mặt với các cơ quan liên quan, với doanh nghiệp và với hải quan các nước, các tổ chức liên quan. Hải quan không thể hoạt động độc lập tại biên giới bởi bản chất của kiểm soát biên giới đòi hỏi nhiều ngành chức năng của chính phủ tham gia kiểm soát. Chính điều này cũng dẫn đến sự chậm trễ, quan liêu và tăng đáng kể chi phí cho thương mại. Cải cách và hiện đại hoá theo mô hình quốc tế là tạo ra cơ chế kiểm soát 1 cửa, 1 lần tại biên giới và khi đó Hải quan sẽ đại diện cho các ngành khác tiến hành kiểm soát biên giới. Điều này chỉ thực hiện được khi có cơ chế phối hợp quốc gia và quốc tế. Khuynh hướng chung của quốc tế về chia xẻ thông tin, cơ sở hạ tầng và phối hợp kiêm soát sẽ là mục tiêu của cải cách hiện đại hoá ngành hải quan.
Tìm kiếm hỗ trợ kỹ thuật, tài chính và các hỗ trợ khác cho cải cách là nhiệm vụ quan trọng, thâm chí quyết định mức độ thành công. Đây là vấn đề cần phải quan tâm đúng mực để quá trình cải cách có thể diễn ra một cách thuận lợi. Trên thực tế, các nguồn hỗ trợ này đóng vai trò quyết định tới mức độ thành công của các dự án hiện đại hóa và cải cách hải quan. Hỗ trợ về kỹ thuật trong lĩnh vực hải quan tương đối dồi dào và có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau như hỗ trợ từ các chuyên gia, các công ty tư vấn tư nhân hay các định chế tài chính quốc tế lớn bao gồm Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình thực thi, cần phải có sự phối hợp hay điều phối đầy đủ giữa các nguồn tư vấn khác nhau. Ngoài ra, hỗ trợ kỹ thuật thường gắn liền với hỗ trợ tài chính vì cả việc cung cấp lẫn tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật đều là những hoạt động tốn kém. Thêm vào đó, nhiều nội dung khác trong chương trình cải cách hải quan cũng đòi hỏi phải có nguồn tài chính lớn để thực hiện như nâng cấp để triển khai hệ thống tự động hay cung cấp hạ tầng truyền thông. Để đảm bảo được nguồn tài chính đáp ứng kịp thời được nhu cầu chi tiêu của chương trình cải cách, một trong những phương án tối ưu là xây dựng quan hệ với các tổ chức quốc tế có khả năng hỗ trợ tài chính cho các khoản chi phí lớn và khẩn cấp song song với việc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền cấp ngân sách cho các hoạt động trong khuôn khổ chương trình cải cách. Bên cạnh hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ tài chính, sự phối hợp với các cơ quan chính phủ khác và các bên có liên quan cũng đóng vai trò rất tích cực đối với thành công của chương trình cải cách. Khi cải cách hải quan được mở rộng ra ngoài phạm vi của ngành hải quan và được đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn của cải cách thương mại, hiệu quả của chương trình cải cách có thể được nâng cao đáng kể nhờ có hỗ trợ từ phía các cơ quan ban ngành khác có liên quan.
Công tác nghiên cứu, dự báo cũng đóng vai trò rất quan trọng vào khả năng thực hiện thành công cải cách. Do mức độ cải cách và mục tiêu hoạt động của hải quan mỗi nước không giống nhau nên việc nghiên cứu dự đoán để hiểu rõ tình hình hiện tại, dự báo xu hướng phát triển trong tương lai nhằm mục đích xây dựng chương trình cải cách phù hợp và đúng hướng là một trong những công việc phải ưu tiên hàng đầu trong quá trình cải cách. Công tác nghiên cứu dự đoán có thể được tiến hành trên cơ sở sử dụng các bộ công cụ và phương pháp khác nhau như các chỉ số dùng để đo lường lượng thất thoát trong thu thuế; Bộ công cụ hỗ trợ thương mại của Ngân hàng thế giới phục vụ cho công tác khảo sát các dịch vụ thương mại và vận tải; Hướng dẫn hải quan quốc tế của Phòng thương mại quốc tế; Bộ công cụ xây dựng năng lực của Tổ chức hải quan thế giới; Hướng dẫn chi tiết về đánh giá hiện trạng hải quan của Ủy ban Châu Âu.
Rõ ràng, lợi ích mà các sáng kiến cải cách và hiện đại hóa hải quan mang lại là rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia, nhất là khi các sáng kiến này tập trung vào cải cách chính sách, hỗ trợ kỹ thuật và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Cải cách và hiện đại hóa hải quan thành công có thể góp phần giảm đáng kể các chi phí thương mại và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quá trình cải cách dễ gặp phải những cản trở bắt nguồn từ thái độ thiếu hợp tác giữa các cơ quan biên giới, phản ứng tiêu cực do những thay đổi nhân sự trong ngành cũng như hiệu quả thấp trong cuộc chiến chống tham nhũng. Để quá trình hiện đại hóa hải quan đạt được cơ hội thành công lớn hơn, các phản ứng có tác động tiêu cực cần phải được tính đến ngay trong quá trình xây dựng chương trình cải cách.
Cũng giống như hải quan nhiều nước khác trên thế giới, yêu cầu cải cách và hiện đại hóa là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho hải quan Việt
Sau khi triển khai giai đoạn đầu, công cuộc cải cách và hiện đại hóa của hải quan Việt
Mặc dù những kết quả đạt được rất đáng khích lệ, một số vấn đề vẫn còn tồn tại trong quá trình cải cách hiện đại hóa, chủ yếu là các vấn đề liên quan đến nhận thức của cán bộ công chức hải quan, xây dựng cũng như tổ chức thực hiện kế hoạch và sự tham gia của các bên liên quan. Những tồn tại này cần phải được giải quyết và khắc phục sớm để có thể tiếp tục triển khai chương trình cải cách trong những giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh đó, dựa vào kinh nghiệm rút ra từ việc triển khai kế hoạch cải cách hiện đại hóa hải quan giai đoạn trước, công cuộc cải cách trong giai đoạn tiếp theo cần phải lưu ý và chú trọng đến xây dựng chiến lược, công tác cán bộ, lãnh đạo, công tác phối hợp với các bên liên quan cũng như công tác giáo dục tuyên truyền.
Thứ nhất, cần phải xây dựng chiến lược phát triển ngành hải quan mang tính chất định hướng lâu dài cho cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành;
Thứ hai, đánh giá đúng vai trò trọng tâm của công tác cán bộ trong cải cách hiện đại hóa hải quan; tiến hành xây dựng, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ song song với công tác đánh giá, bố trí sắp xếp, đề bạt và luân chuyển cán bộ;
Thứ ba, công tác lãnh đạo của hải quan các cấp phải đảm bảo bám sát mục tiêu đã đề ra trong chương trình cải cách và đảm bảo tính thiết thực. Ngoài ra, công tác điều phối, kiểm tra giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện kế hoạch để rút kinh nghiệm cũng cần phải được chú trọng để nâng cao tính hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo;
Thứ tư, cơ quan hải quan cần phải chủ động nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phối hợp với các cơ quan Bộ, ngành có liên quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chung để đạt được hiệu quả cao nhất trong cải cách hiện đại hóa. Thứ năm, công tác giáo dục tuyên truyền cần phải được đẩy mạnh nhằm nâng cao nhận thức và quyết tâm thực hiện các mục tiêu cải cách cho đội ngũ cán bộ; tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác của khối doanh nghiệp và các đối tác khác cũng như đảm bảo hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra trong quá trình cải cách, hiện đại hóa hải quan.