Bàn về thể chế huy động vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

ThS. Đoàn Phương Thảo - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ; TS. Vũ Ngọc Hoàng, Phó Hiệu trưởng, Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định

Trong thời kỳ đổi mới, công tác xây dựng thể chế huy động vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa luôn được Nhà nước quan tâm và từng bước hoàn thiện. Thông qua các quy định pháp luật, doanh nghiệp nhỏ và vừa được hỗ trợ và tạo điều kiện để tiếp cận các nguồn lực, trong đó nguồn vốn có vai trò quan trọng, tuy nhiên, rào cản về thể chế từ phía Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn rất lớn. Bài viết này làm rõ thể chế cho huy động vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa và một số giải pháp hoàn thiện.

Thực trạng thể chế huy động vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Sự hình thành thể chế cho huy động vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ở Việt Nam gắn với thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển doanh nghiệp nói chung, DNNVV nói riêng. Khởi đầu của quá trình thể chế hóa chủ trương của Đảng về hỗ trợ DNNVV là việc Chính phủ ban hành Công văn của số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 về việc định hướng chiến lược và chính sách phát triển các DNNVV, trong đó, đã nêu ra tiêu chí tạm thời xác định DNNVV về quy mô vốn hoặc lao động.

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của DNNVV trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về việc trợ giúp phát triển DNNVV, trong đó quy định: (1) DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người; (2) Chính phủ trợ giúp DNNVV đầu tư thông qua một số biện pháp về tài chính, tín dụng, áp dụng trong một thời gian nhất định vào một số ngành nghề cụ thể, trong đó bao gồm các ngành nghề mang tính truyền thống và tại các địa phương cần hỗ trợ phát triển; khuyến khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và thể nhân góp vốn đầu tư vào các DNNVV; (3) Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV để bảo lãnh cho họ khi không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của các tổ chức tín dụng; (4) Thành lập Cục Phát triển DNNVV trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để hỗ trợ và cùng Bộ thực hiện chức năng, xúc tiến phát triển DNNVV.

Bước hoàn thiện tiếp theo về thể chế cho huy động vốn của DNNVV là Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển DNNVV, trong đó quy định cụ thể hơn về: (1) Tiêu chí xác định DNNVV theo từng khu vực kinh tế với 3 nhóm: doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa; (2) Trợ giúp các DNNVV: do phụ nữ làm chủ, sử dụng nhiều lao động nữ, đồng thời, kết hợp với các chương trình khác trợ giúp DNNVV tiếp cận vốn; (3) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng cơ chế thành lập và hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng trình Thủ tướng Chính phủ quyết định và hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; (4) Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế khuyến khích và dành một số dự án hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường năng lực cho các tổ chức tài chính phù hợp mở rộng tín dụng cho các DNNVV; đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với DNNVV, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ về tư vấn tài chính, quản lý đầu tư và các dịch vụ hỗ trợ khác cho DNNVV; (5) Các chương trình trợ giúp đào tạo của Nhà nước hỗ trợ các DNNVV nâng cao năng lực lập dự án, phương án kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu của tổ chức tín dụng khi thẩm định hồ sơ vay vốn của DNNVV.

Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phát triển mạnh mẽ, ngày 17/4/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 601/2013/QĐ-TTg, đã chính thức đưa Quỹ phát triển DNNVV (viết tắt là SMEDF) đi vào hoạt động để hỗ trợ tài chính và tăng cường năng lực cho các DNNVV phát triển những ý tưởng kinh doanh mới. Các điều kiện về hồ sơ, thủ tục vay vốn cũng được SMEDF và các ngân hàng bảo lãnh tạo mọi điều kiện cho DNNVV thực hiện vay vốn nhanh chóng hơn.

Để có thể tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ từ quỹ, DNNVV có thể thực hiện thông qua 2 lựa chọn linh hoạt: Nộp hồ sơ xin vay vốn tới SMEDF hoặc nộp hồ sơ xin vay vốn tới ngân hàng thương mại nhận ủy thác từ quỹ. Với mỗi lựa chọn đều yêu cầu DNNVV phải đáp ứng đầy đủ hồ sơ theo yêu cầu. Nhằm cụ thể hóa Quyết định số 601/2013/QĐ-TTg, ngày 28/10/2015 Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư số 13/2015/TT-BKHĐT về danh mục lĩnh vực ưu tiên và tiêu chí lựa chọn đối tượng ưu tiên của SMEDF. Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DNNVV huy động vốn, SMEDF cũng tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm để DNNVV được tham gia kết nối với các doanh nghiệp khác trong và ngoài nước, đồng thời được các chuyên gia có kinh nghiệm tư vấn tài chính để tăng cơ hội tiếp cận vốn và tìm kiếm các nhà đầu tư tiềm năng.

Dấu ấn quan trọng trong hoàn thiện thể chế cho DNNVV là việc Quốc hội thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV vào ngày 12/6/2017, trong đó đã cập nhật các tiêu chí xác định DNNVV, quy định rõ các nguyên tắc hỗ trợ DNNVV. Đồng thời, Luật cũng quy định về các nguồn vốn hỗ trợ DNNVV bao gồm: Nguồn vốn tín dụng có hỗ trợ, bảo lãnh của Nhà nước; Nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; Nguồn vốn hỗ trợ từ miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất và các khoản khác phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật; Nguồn vốn hợp pháp từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài. Nguồn vốn hỗ trợ DNNVV phải được lập dự toán, thẩm định, phê duyệt, quyết toán theo quy định của pháp luật.

Một số điều của Luật hỗ trợ DNNVV được quy định chi tiết phản ánh trong Nghị định Chính phủ số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ, trong đó: (1) Bổ sung cụ thể hóa tiêu chí xác định DNNVV theo lĩnh vực; (2) Quy định về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo; về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo và cơ chế sử dụng ngân sách địa phương đầu tư cho DNNVV và vừa khởi nghiệp sáng tạo; về tiêu chí đối tượng DNNVV khởi nghiệp sáng tạo đáp ứng tiêu chí nhận đầu tư từ tổ chức tài chính nhà nước của địa phương; về hình thức và phương thức đầu tư; (3) Về quyết định đầu tư vào DNNVV khởi nghiệp sáng tạo từ nguồn vốn của các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không phụ thuộc vào quyết định đầu tư của tổ chức tài chính nhà nước của địa phương. Đồng thời, để tháo gỡ vướng mắc về thể chế cho huy động vốn của các DNNVV khởi nghiệp, năm 2020 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-TTG về tạo điều kiện cho DN khởi nghiệp sáng tạo.

Nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017, trong bối cảnh mới, ngày 26/8/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hỗ trợ DNNVV thay thế cho Nghị định số 39/2018/NĐ-CP, trong đó tiếp tục cập nhật tiêu chí xác định DNNVV (từ điều 5 đến điều 10), quy định trách nhiệm DNNVV trong việc tự xác định mình thuộc doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ hay vừa để có thể tiếp cận những hình thức hỗ trợ phù hợp.

Nghị định số 80/2021/NĐ-CP cũng bổ sung các nguyên tắc thực hiện hỗ trợ DNNVV, cụ thể là: Căn cứ vào khả năng cân đối nguồn lực và định hướng ưu tiên hỗ trợ trong từng thời kỳ, cơ quan, tổ chức hỗ trợ DNNVV quyết định số lượng DN đủ điều kiện được nhận hỗ trợ đảm bảo nguyên tắc như sau: DNNVV nộp hồ sơ trước được hỗ trợ trước; DNNVV do phụ nữ làm chủ, DNNVV sử dụng nhiều lao động nữ và DNNVV là DN xã hội theo quy định của pháp luật được hỗ trợ trước; Trường hợp DNNVV đồng thời đáp ứng điều kiện của các mức hỗ trợ khác nhau trong cùng một nội dung hỗ trợ theo quy định thì DN được lựa chọn một mức hỗ trợ có lợi nhất…

Nghị định đã quy định cụ thể về điều kiện và mức độ hỗ trợ tài chính cho:

DNNVV ứng dụng công nghệ mới, truy cập các thông tin, sử dụng các dịch vụ tư vấn, phát triển nguồn nhân lực: (1) Tư vấn tìm kiếm, lựa chọn, giải mã và chuyển giao công nghệ phù hợp với doanh nghiệp; (ii) Tra cứu thông tin về hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn trong nước và quốc tế; các sáng chế, thông tin công nghệ, kết quả nghiên cứu khoa học; thông tin kết nối mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo…; (iii) Tư vấn sở hữu trí tuệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ; (iv) Thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng; thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm, mô hình kinh doanh mới...

- DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh được miễn: lệ phí đăng ký doanh nghiệp lần đầu tại cơ quan đăng ký kinh doanh; công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp lần đầu tại Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia; lệ phí môn bài trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; tư vấn, hướng dẫn của Sở Tài chính về thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán.

- DNNVV khởi nghiệp sáng tạo được hỗ trợ: 100% chi phí sử dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật, cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung nhưng không quá 20 triệu đồng/năm/doanh nghiệp; Hỗ trợ tối đa 50% chi phí thuê mặt bằng tại các cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung nhưng không quá 5 triệu đồng/tháng/doanh nghiệp. Thời gian hỗ trợ tối đa là 03 năm kể từ ngày doanh nghiệp ký hợp đồng thuê mặt bằng; Hỗ trợ tối đa 50% chi phí tham gia các cuộc thi quốc tế về khởi nghiệp sáng tạo nhưng không quá 30 triệu đồng/cuộc thi/năm/doanh nghiệp.

- DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị về đào tạo; nâng cao năng lực liên kết sản xuất và kinh doanh; Hỗ trợ thông tin, phát triển thương hiệu, kết nối và mở rộng thị trường; Hỗ trợ tư vấn về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng; Hỗ trợ thực hiện các thủ tục về sản xuất thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng.

Ngày 10/5/2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư số 06/2022/TT-BKHĐT tiếp tục hướng dẫn một số điều của Nghị định số 80/2021/NĐ-CP về các nội dung hỗ trợ gồm: Tư vấn; phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ DNNVV khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; nội dung quản lý các hoạt động hỗ trợ DNNVV.

Một số khó khăn, thách thức về thể chế huy động vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Mặc dù, DNNVV ở Việt Nam đang ngày càng phát triển kể từ khi đổi mới, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế huy động vốn đã hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển của DNNVV, giúp cho DNNVV chủ động nắm bắt thông tin và tuân thủ quy định pháp luật, tuy nhiên trong thực tế, DNNVV vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận vốn:

Một là, thể chế huy động vốn cho DNNVV chưa thực sự bao quát toàn diện những quan hệ kinh tế về huy động vốn cho DNNVV. Giữa chính sách và đời sống luôn có một khoảng cách vô hình hay nói cách khác khó có chính sách nào bám sát hoàn toàn với thực tiễn. Khi tình hình kinh tế có những biến động đầy bất ngờ, cụ thể là đại dịch COVID-19 diễn ra rất phức tạp trong thời gian qua, nhiều thể chế, chính sách được Nhà nước đưa ra nhằm hỗ trợ DNNVV vượt qua đại dịch và khắc phục khó khăn hậu COVID-19, tuy nhiên không phải chính sách nào cũng phù hợp đi vào thực tiễn.

Hai là, sau một thời gian áp dụng, các thể chế, chính sách lỗi thời và không còn phù hợp với xu thế, cần phải sửa đổi và thay thế. Nhiều nội dung các điều luật trong hoàn cảnh này có thể phù hợp với DNNVV nhưng trong hoàn cảnh khác phải xem xét và có giải pháp đối phó. Cụ thể, về chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, trong trường hợp chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19, DNNVV tạm dừng hoạt động hoặc giải thể không có thu nhập thì chính sách giảm thuế cũng không mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp này.

Ba là, chất lượng một số thể chế chính thức chưa cao, chưa phù hợp với yêu cầu về đảm bảo tạo thuận lợi cho DNNVV trong huy động vốn. Trong số các kênh huy động vốn cho DNNVV, kênh tiếp cận vốn tín dụng vẫn là kênh huy động phổ biến nhất. Một số kênh huy động khác cũng được DNNVV cân nhắc, cụ thể là huy động từ bạn bè, người thân, khoản vay mang lại không hợp đồng và nguồn vốn huy động có thể không lớn. Hay hình thức cho vay ngang hàng trên nền tảng trực tuyến cũng được các DN biết đến với thủ tục vay đơn giản nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý và các rủi ro phát sinh khác trong bối cảnh pháp luật nước ta chưa có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động này.

Bốn là, Luật Hỗ trợ DNNVV đã có điều khoản liên quan đến hỗ trợ tiếp cận tín dụng cho DNNVV, nhưng tiếp cận vốn tín dụng đối với DNNVV vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2022, tiếp cận tín dụng là khó khăn chung của toàn DNNVV, song đi vào chi tiết doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp nhỏ là 2 đối tượng khó tiếp cận tín dụng hơn so với doanh nghiệp vừa. Khó khăn lớn nhất đối với nhóm DNNVV trong quá trình huy động vốn tín dụng, đó chính là tài sản thể chấp. Cụ thể, các điều kiện tín dụng của mỗi ngân hàng rất khác nhau, thủ tục vay vốn cũng tương đối phức tạp.

Năm là, huy động vốn tín dụng đối với DNNVV vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Trong năm 2022, gói hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ triển khai qua kênh ngân hàng đến với DNNVV vẫn chưa được như kỳ vọng. Nhóm DNNVV rất mong đợi khoản hỗ trợ để có có tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho việc phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh sau đại dịch. Theo khảo sát của VCCI và USAID (2023), chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp nhận được khoản vay theo chương trình và hơn 56% doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục tiếp cận khoản vay theo gói hỗ trợ đã gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó, chỉ tiêu mới “có khả năng phục hồi” được thêm vào Nghị định nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể để DNNVV nắm bắt thực hiện. Phân tích về chỉ tiêu mới này cho thấy, các nhân tố ảnh hưởng và phương pháp xác định chỉ tiêu “có khả năng phục hồi” là rào cản đối với DNNVV trong việc đánh giá xem họ có đáp ứng đủ yêu cầu nhận hỗ trợ từ chương trình của Nhà nước hay không.

Giải pháp hoàn thiện thể chế huy động vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa

Trước những thách thức và rào cản thể chế đối với DNNVV trong quá trình huy động vốn, Nhà nước cần tập trung thực hiện một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, Nhà nước cần thành lập các đơn vị khảo sát và lấy ý kiến của DNNVV trên phạm vi cả nước.

Khảo sát sẽ mang lại những đánh giá khách quan, trung thực cho các cấp quản lý về thể chế cho huy động vốn của DNNVV. Báo cáo số liệu thu thập sau khảo sát, lấy ý kiến rất quan trọng, được thực hiện công khai, minh bạch thông qua hội thảo tạo tiền đề để các bên phối hợp phân tích và đề xuất biện pháp tháo gỡ khó khăn cho DNNVV trong quá trình tiếp cận vốn, góp phần đưa chính sách bám sát thực tiễn hơn.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế huy động vốn cho DNNVV.

Với tình hình biến động của nền kinh tế và sự thay đổi của lịch sử, sau một thời gian áp dụng, các thể chế, chính sách sẽ không còn theo kịp xu thế thời đại. Nhà nước thành lập các ban dự thảo, tổ chức các đợt thảo luận trong nhân dân, trong các doanh nghiệp nhằm đóng góp ý kiến xây dựng phục vụ mục đích thay thế, điều chỉnh các điều luật không còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những điều luật mới phù hợp với tình hình thực tiễn.

Thứ ba, nâng cao chất lượng một số thể chế tạo thuận lợi cho DNNVV trong huy động vốn.

Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn DNNVV tiếp cận vốn từ các tổ chức tín dụng nhưng chưa đủ thông tin luật liên quan đến hình thức cho vay mới, vay vốn trên các nền tảng trực tuyến. Nhà nước cần có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động này.

Thứ tư, hoàn thiện thể chế về đơn giản hóa thủ tục hành chính và nới lỏng các điều kiện cho vay đối với DNNVV.

Mỗi ngân hàng có những yêu cầu khác nhau và tương đối phức tạp về thủ tục vay vốn. Đặc biệt, DNNVV luôn gặp khó khăn về tài sản thế chấp khi tiếp cận vốn tín dụng. Do đó, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần đánh giá, phân tích và đưa ra các chính sách, thể chế đúng thời điểm, đúng đối tượng song vẫn tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Tài liệu tham khảo:

  1. Quốc hội (2017), Luật số 04/2017/QH14 ngày 12/6/2017, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  2. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 601/2013/QĐ-TTg ngày 17/4/2013, về việc thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  3. Chính phủ (2018), Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  4. Chính phủ (2021), Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Thông tư số 13/2015/TT-BKHĐT ngày 28/10/2015 ban hành danh mục lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ và tiêu chí lựa chọn đối tượng ưu tiên hỗ trợ của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  6. Vũ Tiến Lộc (2019), Hoàn thiện thể chế phát triển doanh nghiệp - nội dung quan trọng trong xây dựng thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới, https://hdll.vn/vi/tin-tuc---su-kien/hoan-thien-the-che-phat-trien-doanh-nghiep---noi-dung-quan-trong-trong-xay-dung-the-che-phat-trien-nhanh-va-ben-vung-dat-nuoc-trong-giai-doan-moi.html;
  7. Kiều Mai (2022), Huy động vốn cho doanh nghiệp nhỏ và startup, https://vneconomy.vn/huy-dong-von-cho-doanh-nghiep-nho-va-startup.htm;
  8. Anh Minh (2023), Bộ Tài chính chỉ đạo giám sát chặt tình trạng gian lận, ‘ép’ mua bảo hiểm, https://baochinhphu.vn/bo-tai-chinh-chi-dao-giam-sat-chat-tinh-trang-gian-lan-ep-mua-bao-hiem-102230220160601851.htm;
  9. Huy Phong (2016), Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kênh tín dụng mới cho doanh nghiệp, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?;
  10. VCCI và USAID (2023), Báo cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI 2022, NXB Thanh niên, Hà Nội.
 
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 8/2023