Bất động sản công nghiệp còn nhiều dư địa phát triển
Theo ông Nguyễn Trần Nam - Chủ tịch Hiệp hội bất động sản (BĐS) Việt Nam, BĐS công nghiệp hiện đang trở thành phân khúc hấp dẫn nhất cho các nhà đầu tư năm 2019. Với nhiều thay đổi tích cực, các dự án BĐS công nghiệp sẽ còn nhiều dư địa và thời cơ để phát triển.
Thị trường BĐS công nghiệp Việt Nam đang tạo dựng được một niềm tin mạnh mẽ về sự tăng trưởng trong mắt các nhà đầu tư quốc tế, đây cũng là tiền đề để thúc đẩy tăng trưởng cho phân khúc này. Việt Nam đang phấn đấu trở thành một trong những địa điểm thu hút đầu tư về công nghiệp sản xuất trong khu vực Đông Nam Á.
“Khi thị trường BĐS đi vào trật tự và ổn định hơn vì được hưởng lợi bởi nhiều yếu tố, từ bối cảnh cho đến chính sách… thì phân khúc BĐS công nghiệp Việt Nam cũng có nhiều dư địa và cơ hội phát triển... Cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, đây sẽ trở thành phân khúc có đà phát triển rất tốt, nếu nhà đầu tư biết nắm bắt thời cơ và Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho thị trường phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có”, ông Nguyễn Trần Nam cho biết thêm.
Phân khúc BĐS công nghiệp hiện đang nhận được sự kỳ vọng và quan tâm rất lớn của thị trường. Việc Việt Nam tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), liên tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh đã thu hút ngày càng nhiều dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào. Điều này đã tạo động lực cho phân khúc BĐS công nghiệp và logistics phát triển.
Theo ông Stephen Wyatt-Tổng Giám đốc JLL Việt Nam, xét về mức lợi nhuận trên chi phí (yield on cost) và lợi nhuận trên tiền mặt, lợi nhuận thu được từ việc phát triển BĐS công nghiệp tại Việt Nam có thể đạt 11 - 12%, là mức cao nhất trong khu vực. Cùng với đó, sự dịch chuyển cơ sở sản xuất của các doanh nghiệp nước ngoài tại Trung Quốc và cả doanh nghiệp Trung Quốc sang các nước khác, trong đó có Việt Nam là thời cơ cho BĐS công nghiệp Việt Nam “cất cánh” trong năm 2019.
Ông Lý Tuấn Anh-Phó trưởng Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Sóc Trăng chia sẻ, Sóc Trăng có 5 khu công nghiệp, trong đó 1 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động. Từ nay đến năm 2020, tỉnh đang tập trung một số công tác chuẩn bị để thu hút đầu tư, nhất là đầu tư hạ tầng tại 4 khu công nghiệp còn lại.
Trong đó, tỉnh rất quan tâm đến công tác quy hoạch và thực hiện các phương án đền bù, tạo quỹ đất. Sóc Trăng là một địa phương nghèo, vì vậy các dự án đầu tư hạ tầng khu công nghiệp tại tỉnh được hưởng ưu đãi đầu tư cao nhất về thuế, đất đai và một số vấn đề khác có liên quan.
Cụ thể, các dự án đầu tư hạ tầng khu công nghiệp khi đầu tư tại tỉnh được miễn toàn bộ tiền thuê đất trong toàn bộ vòng đời dự án. Bên cạnh đó, là các ưu đãi khác như về thuế nhập khẩu, thuế thu nhập, hỗ trợ đầu tư hạ tầng từ ngân sách Nhà nước.
Thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, tính đến hết năm 2018, cả nước có 326 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên đạt gần xấp xỉ 93 nghìn ha. Tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động đạt 73%. Những số liệu trực quan trên phần nào đã thể hiện độ “hot” của phân khúc BĐS công nghiệp.
Theo ông Nguyễn Đình Cung – Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương: “Sức hấp dẫn của BĐS công nghiệp Việt Nam cao hơn mức trung bình của khu vực và tiếp tục được thúc đẩy bởi các yếu tố như chi phí lao động thấp, giá thuê đất hợp lý, thuế suất thu nhập doanh nghiệp ưu đãi”.
Tuy nhiên, ông Cung cũng cho rằng, sự phát triển của BĐS công nghiệp Việt Nam đang còn nhiều bất cập như thị trường còn non trẻ, đang trong giai đoạn khởi đầu; hạ tầng, nhà xưởng chất lượng thấp; đóng góp của nhiều khu công nghiệp vào GDP còn chưa tương xứng với tiềm năng, chính sách liên quan chưa đủ mạnh để hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy thị trường phát triển.
Bên cạnh đó, hạ tầng kết nối đa phương tiện còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu, mất cân đối giữa vận tải đường bộ và các loại hình vận tải khác như đường sắt, đường thủy, vận tải hàng hóa đường bộ chiếm 77% tổng lượng vận chuyển hàng hóa của cả nước. Thêm nữa, chi phí logistics hiện còn cao khá nhiều so với hầu hết các nước trong khu vực.
Về phần mình, ông Trần Quốc Trung - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý các khu kinh tế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho hay, vấn đề nhà ở, phúc lợi xã hội và đời sống công nhân trong khu công nghiệp chưa được cải thiện rõ rệt, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực gắn với ngành nghề thu hút đầu tư trong các khu công nghiệp còn thiếu. Ngoài ra, chính sách hiện hành còn một số điểm vướng mắc còn chưa thuận lợi cho thu hút đầu tư, phát triển các khu công nghiệp.
Còn theo ông Lý Tuấn Anh, tỉnh Sóc Trăng đã chủ động tạo hành lang pháp lý tương đối thuận lợi để nhà đầu tư triển khai thực hiện đầu tư hạ tầng. Tuy nhiên, để tạo điều kiện tốt nhất thu hút đầu tư pháp triển hạ tầng các khu công nghiệp, trong tương lai cần có Luật Phát triển khu công nghiệp làm khung pháp lý cao nhất.
Để tiếp tục thu hút dòng vốn FDI chất lượng, qua đó tạo đà cho BĐS công nghiệp bứt phá và phát triển theo hướng bền vững, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới, ông Nguyễn Đình Cung cho rằng, khu công nghiệp cần gắn kết với các hạ tầng dịch vụ logistics, với hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; cần gắn kết khu công nghiệp với quá trình đô thị hóa; hướng đến phát triển bền vững trong các khu công nghiệp; xây dựng khu công nghiệp cộng sinh sinh thái. Từ đó, hình thành các khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ hay cao hơn là các thành phố công nghiệp, đô thị thông minh.
Còn ông Nguyễn Trần Nam cho rằng, cần đổi mới tư duy và công tác lập quy hoạch đất công nghiệp nằm trong quy hoạch tổng thể của vùng, địa phương và cả nước. Bên cạnh đó, tập trung quy hoạch các khu công nghiệp và cụm công nghiệp sạch, sinh thái, thân thiện môi trường và thu hút công nghệ cao với các mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài. Quy hoạch cần được lập đồng bộ và công bố công khai để cho các nhà đầu tư nghiên cứu, nắm bắt cơ hội và tham gia đầu tư sớm.
Ngoài ra, cần tiếp tục duy trì mức đầu tư hợp lý vào cơ sở hạ tầng, trong xu hướng phát triển không ngừng của logistics, công nghiệp, minh bạch hóa thông tin về thị trường BĐS, với những chính sách dài hạn, ổn định và có tính đảm bảo mức độ rủi ro chính sách, tạo tâm lý yên tâm, an toàn cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.