Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đạt mốc 500 ca ghép thận thành công

Ngô Hùng

Từng phải gắn bó với máy chạy thận suốt 11 năm, ông Phạm Minh Tuyên (51 tuổi, Thái Bình) gọi ca ghép thận tại Bệnh viện TWQĐ 108 năm 2017 là “một cuộc hồi sinh”. Đây là minh chứng sống động cho hành trình y học đầy nỗ lực tại bệnh viện này – nơi vừa cán mốc 500 ca ghép thận thành công sau gần một thập kỷ, với tỷ lệ sống sau 5 năm đạt 95%, ngang tầm các nước phát triển.

Hội nghị Khoa học “Ghép thận tại Bệnh viện TWQĐ 108: Những thách thức mới” được tổ chức ngày 29/5 tại Hà Nội.
Hội nghị Khoa học “Ghép thận tại Bệnh viện TWQĐ 108: Những thách thức mới” được tổ chức ngày 29/5 tại Hà Nội.

Ngày 29/5, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (TWQĐ 108) tổ chức Hội nghị Khoa học “Ghép thận tại Bệnh viện TWQĐ 108: Những thách thức mới”. Đây là sự kiện nhằm tổng kết 500 ca ghép thận tại Bệnh viện TWQĐ 108, chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận về những thách thức mới trong lĩnh vực ghép thận tại Việt Nam và quốc tế.

Phát biểu khai mạc hội nghị, PGS.TS.Vũ Ngọc Lâm, Phó Giám đốc Bệnh viện TWQĐ 108 chia sẻ: Ghép tạng nói chung và ghép thận nói riêng được đánh giá là một trong những thành tựu khoa học lớn nhất của y học thế kỷ XX. Phương pháp điều trị bằng ghép thận là cách điều trị duy nhất để cứu sống người bệnh trong một số trường hợp như suy thận mạn giai đoạn cuối, các bệnh tự miễn như lupus ban đỏ gây suy thận mạn, hội chứng tụy thận do tiểu đường...

PGS.TS.Vũ Ngọc Lâm, Phó giám đốc Bệnh viện TWQĐ 108 phát biểu khai mạc hội nghị.
PGS.TS.Vũ Ngọc Lâm, Phó giám đốc Bệnh viện TWQĐ 108 phát biểu khai mạc hội nghị.

“Ghép thận cho đến thời điểm hiện tại, vẫn được coi là phương pháp điều trị tối ưu nhất cho những người bệnh mắc bệnh thận mạn giai đoạn cuối. Mặc dù ghép thận đã được tiến hành ở Việt Nam từ những năm 1992, tuy nhiên vẫn luôn có các khó khăn, thử thách đặt ra.

Hội nghị khoa học này sẽ là cơ hội chúng tôi nhìn lại hành trình gần 10 năm thực hiện ghép thận tại bệnh viện, đồng thời là cơ hội để các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực ghép thận trong và ngoài nước cùng chia sẻ kinh nghiệm”, PGS.TS.Vũ Ngọc Lâm chia sẻ.

Trong gần một thập niên, 500 bệnh nhân được ghép thận tại Bệnh viện TWQĐ 108, tỷ lệ sống trên 5 năm đạt 95%, tương đương các nước phát triển. Thông tin được BSCK2 Ngô Quân Vũ, Trưởng khoa Nội thận - lọc máu, cho biết tại hội nghị.

Ca ghép thận đầu tiên được thực hiện tại Bệnh viện vào năm 2016 cho bệnh nhân Lê Hữu Đa sinh năm 1964, nhận thận từ người hiến sống. Đến nay đã được 10 năm, chức năng thận vẫn ổn định. Trải qua 8 năm kể từ ca ghép thận đầu tiên, bệnh viện đã thực hiện 500 ca, mang lại hy vọng sống mới cho các bệnh nhân suy thận mạn tính giai đoạn cuối.

Tỷ lệ ghép tăng dần qua các năm, hiện trung bình mỗi năm ghép từ 120-140 ca, chủ yếu là từ người cho sống. Trong đó, 65% bệnh nhân ghép thận là nam, nữ chiếm 35%. Bệnh nhân ghép thận trẻ nhất là 19 tuổi, cao nhất là 70 tuổi, trong đó nhóm tuổi được ghép nhiều nhất là 20-39 tuổi, đạt 46%.

Ông Phạm Minh Tuyên 51 tuổi (Thái Bình) là một trong những bệnh nhân ghép thận đầu tiên tại Bệnh viện TWQĐ 108.
Ông Phạm Minh Tuyên 51 tuổi (Thái Bình) là một trong những bệnh nhân ghép thận đầu tiên tại Bệnh viện TWQĐ 108.

TS.BS.Nguyễn Việt Hải, Chủ nhiệm Khoa Tiết niệu, Bệnh viện TWQĐ 108 cho hay, ghép thận là phương pháp điều trị hiệu quả, chất lượng cao, chi phí thấp so với các phương pháp như chạy thận nhân tạo, lọc màng bụng cho người suy thận mạn giai đoạn cuối.

Một bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối phải chạy thận 3 lần một tuần, cuộc sống gần như gắn liền với bệnh viện, không có khả năng lao động, tạo gánh nặng cho gia đình xã hội. Nếu được ghép thận, bệnh nhân sống tốt, quay trở lại lao động bình thường, có ích cho xã hội.

Như trường hợp ông Phạm Minh Tuyên 51 tuổi (Thái Bình) mắc suy thận, phải chạy thận suốt 11 năm, khiến sức khỏe giảm sút, công việc bị gián đoạn khi mỗi tuần phải thu xếp đến viện chạy thận 3 lần. Năm 2017, ông được ghép thận tại Bệnh viện TWQĐ 108, đến nay được 8 năm, sức khỏe tốt, quay trở lại làm việc bình thường.

“Ghép thận không chỉ giúp tôi kéo dài thời gian sống, mà còn nâng cao chất lượng sống. Được khỏe mạnh, được làm việc, tiếp tục cống hiến như hôm nay khiến tôi vô cùng hạnh phúc”, ông Tuyên chia sẻ tại hội nghị và cảm ơn các y bác sĩ đã giúp ông được “hồi sinh”.

Ngày nay, ghép thận đã có những bước phát triển lớn như ghép thận từ người cho chết não, ghép thận từ người cho sống, giúp điều trị cho rất nhiều trường hợp bệnh lý suy thận mạn giai đoạn cuối mà các phương pháp điều trị thay thế thận khác không đạt được. Tại Việt Nam, thành công đầu tiên trong ghép tạng ở nước ta phải kể đến ghép thận, sau đó là ghép gan và ghép tim.

Để triển khai ghép thận nói riêng và ghép tạng nói chung cần đòi hỏi kết hợp của nhiều chuyên ngành: Ngoại khoa, nội khoa, gây mê, hồi sức tích cực, cận lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và các phòng, ban liên quan, tạo thành một tổ hợp kết hợp chặt chẽ. Khi tiến hành một ca ghép thận thành công, tất cả các chuyên ngành đều phát triển, đáp ứng được chất lượng về chẩn đoán, cấp cứu và điều trị cũng như điều phối tổ chức thực hiện.

Tuy nhiên, quá trình ghép thận không phải lúc nào cũng thuận lợi. Những thách thức mới, từ các bệnh lý phức tạp, nguy cơ miễn dịch cao, đến các ca ghép bất tương hợp nhóm máu, đặt ra yêu cầu lớn về chuyên môn và công nghệ. Ngoài ra, vấn đề lớn nhất hiện nay là thiếu hụt nguồn thận ghép, trong khi nhu cầu ghép rất cao. Trong số các ca ghép, nguồn tạng từ người cho sống là chủ yếu, người hiến chết não, ngừng tim chiếm rất ít.

Trong khuôn khổ của hội nghị, các báo cáo viên và chuyên gia cũng cùng nhau thảo luận về các phương pháp điều trị mới, kinh nghiệm trong ghép thận bất tương hợp nhóm máu và tối ưu hóa thuốc ức chế miễn dịch. Hội nghị còn trao đổi với các chuyên gia quốc tế hàng đầu như GS. Lionel Rostaing (Grenoble University, Pháp) và GS Shin Sung (Asan Medical Center, Hàn Quốc).