Cải cách doanh nghiệp: Phát triển bền vững để hội nhập trong điều kiện mới

Thuỷ - Nhi

Việt Nam đã cam kết thực hiện những nguyên tắc mang tính ràng buộc với mọi thành viên của WTO, bao gồm một số cam kết cụ thể liên quan tới các cơ chế, chính sách tài chính DN. Hiện nay, dường như việc đổi mới cơ chế chính sách tài chính đối với DNNN đang chững lại so với giai đoạn chuẩn bị gia nhập tổ chức này. Trong điều kiện kinh tế vĩ mô kém thuận lợi như hiện nay, để tăng cường thực hiện các cam kết hội nhập, cần tập trung vào cải cách, đổi mới DN và DNNN theo hướng phát triển bền vững nhằm giải quyết tận gốc động lực của nền kinh tế là tạo điều kiện cho DN phát triển.

Nhìn lại những cam kết chủ yếu về DN và DNNN
Liên quan đến đổi mới, cải cách khu vực DN công, trong văn kiện về các cam kết của Việt Nam đã nêu rõ, các DNNN do Nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát, hoặc được hưởng đặc quyền hoặc độc quyền sẽ phải chuyển hoàn toàn hoạt động theo tiêu chí thương mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của DNNN và không coi mua sắm của DNNN là mua sắm Chính phủ mà tham gia với tư cách là một cổ đông bình đẳng với các cổ đông khác của DN. Việt Nam cũng cam kết sẽ báo cáo thường niên cho WTO về tiến độ cổ phần hóa chừng nào còn duy trì chương trình này.
Bên cạnh các cam kết liên quan đến cải cách khu vực DNNN, còn nhiều cam kết khác về hoạt động xuất khẩu - nhập khẩu, về thuế quan và thuế nội địa, về hạn ngạch nhập khẩu... nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa DN Việt Nam và DN nước ngoài ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Cụ thể, kể từ khi gia nhập, DN và cá nhân nước ngoài được quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như DN và cá nhân Việt Nam, trừ các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước và một số mặt hàng nhạy cảm khác chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm). Về thuế nhập khẩu, các loại thuế và các khoản thu khác, cam kết sẽ áp dụng thuế nhập khẩu theo nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các thành viên WTO (trừ những trường hợp ngoại lệ được WTO cho phép), nếu tăng thuế nhập khẩu thì thực hiện theo quy định của WTO. Không duy trì các loại thuế và khoản thu áp dụng riêng cho hàng nhập khẩu (trên thực tế các phụ thu này đã được bãi bỏ). Cam kết sẽ miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên cơ sở không phân biệt đối xử và sẽ không gắn việc miễn, giảm thuế với các yêu cầu về xuất khẩu hay nội địa hóa. Về hạn ngạch thuế quan (HNTQ), cam kết sẽ áp dụng, phân bổ và quản lý HNTQ một cách minh bạch, không phân biệt đối xử và tuân thủ theo đúng các quy định của WTO. Các loại phí và lệ phí sẽ áp dụng theo quy định của WTO để phản ánh đúng giá trị của dịch vụ được cung ứng. Về chính sách thuế nội địa, cam kết trong vòng 3 năm sau khi gia nhập sẽ điều chỉnh lại cách đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định của WTO. Việt Nam cũng cam kết tuân thủ các Hiệp định có liên quan của WTO khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Tuân thủ các quy định của WTO về hạn chế xuất khẩu, phí, lệ phí, thuế nội địa đối với hàng xuất khẩu. Đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO (trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa). Trừ các ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, cho DN trong nước và DN có vốn đầu tư nước ngoài bảo lưu được thời gian quá độ là 5 năm (trừ đối với ngành dệt may). Cam kết tuân thủ đầy đủ các quy định của Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT). Đồng ý cho phép các bên tham gia liên doanh được tự thỏa thuận về tỷ lệ vốn tối thiểu cần thiết để quyết định các vấn đề quan trọng của công ty TNHH và công ty cổ phần.

Công cuộc cải cách thủ tục hành chính đã giúp cho hoạt động của các DN được thuận lợi. Việc cổ phần hóa DN tạo điều kiện thuận lợi để các DN tinh giảm, sắp xếp lại lao động, kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ...

Về mở cửa thị trường dịch vụ, Việt Nam cam kết mở cửa theo lộ trình khoảng 110 phân ngành trong tổng số 155 phân ngành thuộc 11 ngành dịch vụ theo phân loại của WTO.  Cam kết này mặc dù đã bảo vệ được những ngành, phân ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch... với mức độ cam kết gần như Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA) nhưng với các ngành khác thì cần có những bước tiến phù hợp định hướng phát triển thương mại dịch vụ nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung để thực hiện đúng lộ trình thực thi với thời gian chuyển tiếp trong khoảng 3 đến 5 năm cho các cam kết chính trong các ngành dịch vụ quan trọng.
Về khuôn khổ xây dựng và thực thi chính sách, Việt Nam thống nhất thực hiện 3 cam kết: Một là, trong quá trình phê chuẩn văn kiện gia nhập, Việt Nam sẽ xác định thể thức thực thi các cam kết (áp dụng trực tiếp hoặc nội luật hóa) và khẳng định nguyên tắc ưu tiên áp dụng các điều khoản trong cam kết quốc tế; Hai là, các quy định của WTO được áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ; các luật, các quy định dưới luật và các biện pháp khác bao gồm các quy định và biện pháp của chính quyền địa phương đều phải tuân thủ các quy định của WTO; Ba là, các cơ quan tư pháp (cơ quan xét xử) sẽ giữ tư cách độc lập, khách quan khi xét xử các quyết định hành chính thuộc các lĩnh vực mà WTO điều chỉnh.
Như vậy, các cam kết khi gia nhập WTO đã đem tới nhiều cơ hội hợp tác quốc tế cho DN Việt Nam nhưng cũng đặt các DN trước những thách thức lớn, chủ yếu là năng lực cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa cũng như quốc tế. Đối với DNNN, ngoài việc phải thực hiện các cam kết chung đối với DN, còn phải cải cách, đổi mới toàn diện từ cơ chế, chính sách chung tới từng hoạt động thường xuyên tại DN vì từ trước đến nay, các DNNN được hưởng cơ chế, chính sách và được điều hành, quản lý khá khác biệt so với các DN khu vực tư. Công cuộc đổi mới toàn diện DNNN đòi hỏi chính sách tài chính đối với khu vực DNNN cũng luôn phải đổi mới sát sao trong từng thời kỳ.
Yêu cầu tiếp tục cải cách DN và DNNN hiện nay
Cơ hội và thách thức do WTO đem lại
Đối với DN và DNNN, việc gia nhập WTO đem lại nhiều tác động tích cực như đã tạo ra áp lực cạnh tranh, thúc đẩy các DN có những thay đổi mang tính chiến lược nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh, đứng vững trên thị trường nội địa; Bước đầu mở ra cơ hội tiếp cận, mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm sang các nước thành viên; Tạo áp lực để các cơ quan cung cấp dịch vụ công và các cơ quan hành chính minh bạch hóa thủ tục, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giúp tiết kiệm thời gian, giảm các chi phí giao dịch; Đồng thời, mở ra cơ hội hợp tác với các tập đoàn sản xuất lớn trong khu vực và thế giới. Trên thực tế, áp lực cạnh tranh ngày càng tăng và những thay đổi thể chế đối với DNNN do việc gia nhập WTO đã khiến các DNNN đứng trước yêu cầu phải tự đổi mới. Nhiều DNNN đã chủ động điều chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động để có thể cạnh tranh bình đẳng với các DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Trong điều kiện giá cả nhiều đầu vào quan trọng tăng cao và sự cạnh tranh gay gắt của các mặt hàng nhập khẩu như hiện nay, nhiều tập đoàn và tổng công ty nhà nước vẫn hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh và thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách. Nhiều báo cáo của các tổ chức đã chỉ ra rằng lợi nhuận của các DN được cổ phần hóa cao hơn so với các DNNN chưa cổ phần hóa.
Tuy nhiên, trước mắt, tác động tiêu cực của việc gia nhập WTO cũng không ít, chủ yếu là việc DNNN phải đối mặt với sự cạnh tranh của các sản phẩm nước ngoài. Trong giai đoạn ban đầu của hội nhập, DN có thể chưa ý thức được những ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập đến hoạt động của mình. Song, cần nhận thức rằng, về lâu dài, những nguy cơ chính của hội nhập vẫn tồn tại và chưa thể đo lường được nên các DN cũng gặp khó khăn trong việc hoạch định chiến lược dài hạn. Bên cạnh đó, trong quá trình gia nhập WTO, tuy nhận thức và hành động của các DN và các cơ quan quản lý có những chuyển biến tích cực song DN, đặc biệt  là DNNN vẫn chưa thực sự quan tâm sâu sát đến tác động của việc hội nhập này (ngoại trừ các DN có hoạt động xuất nhập khẩu, các DN có vốn đầu tư nước ngoài). Có thể nói không quá rằng phần lớn các DN kinh doanh nội địa và các hộ kinh doanh còn chưa thực sự quan tâm đến những tác động của WTO, rất nguy hiểm khi những rào cản về thị trường ngày càng được dỡ bỏ theo lộ trình các cam kết. Bộ phận kinh tế này sẽ khó khai thác các cơ hội và đối phó với những thách thức một cách hiệu quả.
Về phía cơ quan quản lý, nhìn tổng thể thời gian qua, Chính phủ đã nỗ lực để đẩy nhanh quá trình sắp xếp và đổi mới DNNN, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cắt giảm các hình thức trợ cấp không phù hợp và xóa bỏ sự phân biệt đối xử đối với các DN tư nhân trong nước và nước ngoài theo đúng hướng đã cam kết khi gia nhập WTO nhưng so với mục tiêu cam kết thì con đường cải cách còn khá dài.
Thuận lợi và khó khăn trong tình hình mới
Nhìn trung và dài hạn thì nền kinh tế nước ta có nhiều thuận lợi cho DN nói chung và DNNN nói riêng. Suốt nhiều năm qua, nền kinh tế đã tăng trưởng với tốc độ cao, nhu cầu thị trường về nhiều mặt hàng tăng nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN đẩy mạnh đầu tư, tăng qui mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc gia nhập WTO cũng mở ra điều kiện cho các DN dễ dàng hơn thâm nhập thị trường nước ngoài. Công cuộc cải cách thủ tục hành chính đã giúp cho hoạt động của các DN được thuận lợi. Việc cổ phần hóa DN tạo điều kiện thuận lợi để các DN tinh giảm, sắp xếp lại lao động, kiên toàn bộ máy quản lý, nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ công nhân viên. Mô hình công ty cổ phần đã bước đầu đem lại sự công khai, minh bạch kết quả sản xuất kinh doanh của các DNNN cũ trước các cổ đông và các nhà đầu tư, từ đó tạo động lực lớn trong quá trình triển khai các chiến lược sản xuất kinh doanh của các DN, nâng cao được giá trị thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước. Các DN nội địa, đặc biệt là DNNN qua quá trình hoạt động lịch sử dài lâu đã khá am hiểu thị trường trong nước và có mạng lưới các nhà cung cấp và phân phối sản phẩm rộng khắp nên nguồn nguyên liệu ổn định, việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước cũng khá bình ổn.
Song, bên cạnh những thuận lợi khá rõ ràng đã được nhìn nhận (nhưng chưa phát sinh thêm những thuận lợi mới), hoạt động của các DNNN gặp phải nhiều khó khăn và càng khó khăn hơn trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước mới đây. Trước hết phải kể đến những khó khăn có tính  "kinh điển" của DNNN như năng lực kinh doanh và năng lực nghiệp vụ của các DN còn hạn chế về qui mô kinh doanh, mặt hàng chưa đa dạng; Hiếm DN có được một tầm nhìn và chiến lược dài hạn mà vẫn chỉ kinh doanh theo thói quen cũ chứ chưa tìm ra hướng mới; Khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có kỹ năng, có trí tuệ và lao động quản lý đặc biệt là với chính sách tiền lương như hiện nay; Khó khăn về việc áp dụng công nghệ mới, máy móc thiết bị (các giám đốc các DNNN vẫn ngại chấp nhận rủi ro đầu tư cho công nghệ mới nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh của DN); Khó khăn do rào cản kỹ thuật và sức cạnh tranh yếu kém trên thị trường xuất khẩu và nội địa; và khó khăn kinh điển nhất là nhu cầu vốn  luôn rất lớn mà khả năng cung ứng lại quá hạn chế. Hơn thế, mới đây nhiều khó khăn tiếp tục phát sinh do kinh tế thế giới xấu đi, giá nguyên, vật liệu tăng nhanh và cao, nhiều cơ chế, chính sách được cải cách, đổi mới nhưng kết quả không như mong đợi. Chẳng hạn các cải cách về thủ tục hành chính đối với DN, thủ tục xuất khẩu - nhập khẩu còn phức tạp, các đổi mới về chính sách tài chính chưa có tác động tích cực và bền vững đối với DN, đặc biệt là DNNN. Tình hình kinh tế thế giới mới đây đã và đang xấu đi nhanh chóng xuất phát từ hậu quả yếu kém trong hoạt động kinh doanh tài chính của Mỹ. Điều kiện hội nhập kinh tế cũng khiến động thái tiêu cực này tác động không nhỏ và lâu dài tới nền tài chính khu vực và Việt Nam từ đó tác động tới hoạt động của DN, đòi hỏi các DN càng phải đổi mới sâu sắc, toàn diện tạo dựng nền móng phát triển bền vững.
Ngoài việc chú trọng những khó khăn mang tính bản chất, lâu dài nói trên, các DN và DNNN cần nhận thức rõ những khó khăn trước mắt hiện nay, từ đó tích cực tự đổi mới cho phù hợp, đó là:
- Lạm phát, lãi suất, tỷ giá, giá các nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả SXKD của các DN.
- Sự không ổn định của thị trường tiền tệ, lãi suất vay của các ngân hàng tăng cao, thị trường chứng khoán chưa có dấu hiệu phục hồi chắc chắn dẫn đến việc vay vốn, phát hành trái phiếu huy động vốn, cổ phần hoá của các DN nhằm huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến các DN thiếu vốn cho hoạt động SXKD.
- Thị trường bất động sản trầm lắng, số lượng và giá cả giao dịch giảm mạnh, bên cạnh đó lãi vay ngân hàng, giá vật liệu xây dựng tăng cao làm cho các DN đầu tư kinh doanh bất động sản bị lỗ lớn (kể cả tiếp tục đầu tư lẫn dừng đầu tư).
- Các DNNN sản xuất, kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân đang thực hiện chỉ đạo của Chính phủ không tăng giá, góp phần bình ổn giá cả đến hết năm 2008. Tuy nhiên trong bối cảnh giá các nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào tăng cao sẽ khiến hiệu quả SXKD suy giảm đáng kể, thậm chí phát sinh những khoản lỗ không nhỏ. Song, nếu cho phép các DNNN này điều chỉnh tăng giá thì sẽ ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân và chi phí đầu vào của cả nền kinh tế quốc dân.
- Đối với các ngân hàng và tổ chức tín dụng, hiệu quả kinh doanh của hoạt động tín dụng giảm nhiều vì sự biến động nhanh của lãi suất huy động trong thời gian ngắn; việc thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng làm tăng chi phí vốn vào ngân hàng, bên cạnh đó mặt bằng lãi suất liên tục tăng làm cho các khoản tiền gửi ngày càng rút ngắn về kỳ hạn gây nhiều rủi ro về chi phí và quản lý tính thanh khoản của ngân hàng.
Như vậy, các cam kết khi gia nhập WTO buộc cơ chế, chính sách đối với DNNN phải đổi mới, đồng thời, các DNNN cũng phải tự đổi mới mình. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, việc rà soát các cơ chế, chính sách đổi mới đối với DNNN là rất cần thiết để có định hướng phù hợp làm cơ sở cho các DNNN tự đổi mới theo kịp với diễn biến không thuận lợi của nền kinh tế.
Một số định hướng về cải cách DN và đổi mới cơ chế, chính sách
Một là, mọi DN phải đẩy mạnh các cải cách căn bản để tăng năng lực cạnh tranh. Theo đó, các DN cần: (i) Triển khai các chiến lược kinh doanh chủ động trong môi trường kinh doanh hội nhập quốc tế; chú trọng cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng, đa dạng mẫu mã đáp ứng nhu cầu của từng thị trường; Tăng cường quảng bá sản phẩm; tăng cường giá trị gia tăng bổ sung cho các sản phẩm; Củng cố và mở rộng hệ thống phân phối, phát triển dịch vụ sau bán hàng... nhằm tạo nên chuỗi cung ứng giá trị; Đáp ứng tốt các tiêu chuẩn kỹ thuật của các thị trường nước ngoài để gia tăng xuất khẩu; (ii) Chú trọng cải cách chiến lược phát triển, thực hiện tái cấu trúc DN, sắp xếp lại tổ chức của DN. Tìm kiếm cơ hội liên doanh liên kết với các DN có thế mạnh trong lĩnh vực liên quan (liên kết ngang và dọc) để phát huy lợi thế sẵn có của DN và tăng sức mạnh cạnh tranh; (iii) Tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, đặc biệt là đội ngũ quản lý điều hành và công nhân kỹ thuật; Tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất các sản phẩm có tiềm năng tiêu thụ trên thị trường nội địa cũng như ở nước ngoài; (iv) Minh bạch hoá hoạt động và kết quả hoạt động SXKD của DN.

Trong giai đoạn khó khăn về vốn đầu tư và hiệu quả đầu tư đối với toàn bộ nền kinh tế, hơn ai hết các DNNN phải định hướng lại luồng vốn đầu tư của chính mình và tập trung đảm bảo hiệu quả đầu tư của đồng vốn Nhà nước.

Hai là, DNNN phải phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn của toàn bộ DN hiện nay. Các DNNN phải xác định nhiệm vụ hàng đầu của mình là đảm bảo cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế với mức giá thấp nhất có thể, góp phần bình ổn đời sống và sản xuất. Cụ thể, các DNNN phải đảm đương  mặt hàng chiến lược và nhạy cảm với nền kinh tế như xăng dầu, phân bón, lương thực thực phẩm, khoáng sản, vật liệu xây dựng, sắt,  thép... Về phía Nhà nước, cần quán triệt quan điểm là tệ nạn đầu cơ trái pháp luật, buôn lậu phá vỡ thị trường phải được kiểm soát chặt chẽ và trừng phạt đích đáng, kể cả đối với DNNN. Trong giai đoạn khó khăn về vốn đầu tư và hiệu quả đầu tư đối với toàn bộ nền kinh tế, hơn ai hết các DNNN phải định hướng lại luồng vốn đầu tư của chính mình và tập trung đảm bảo hiệu quả đầu tư của đồng vốn Nhà nước. Theo đó, từng DN phải rà soát lại danh mục đầu tư kỹ tới từng dự án, mỗi dự án phải rà soát lại từng công đoạn để đảm bảo dự án nào tốt nhất mới tiếp tục được đầu tư. Đồng vốn hiện tại vừa quý, vừa hiếm, việc rà soát luồng vốn đầu tư thật sát với tính hiệu quả là đặc biệt cần thiết. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng việc rà soát nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, nhằm chọn hướng tốt nhất cho đồng vốn, chứ không có nghĩa là rà soát làm chậm lại, làm vướng mắc thêm cho hoạt động đầu tư của DNNN, dẫn tới quyết định dừng lại toàn bộ các dự án dở dang. Nhìn chung, việc dừng lại các dự án đầu tư dang dở là một hành động phi hiệu quả, chỉ vì thiếu vốn, ta buộc phải lựa chọn để đồng vốn đi vào dự án hiệu quả nhất trong thời điểm khó khăn này. Bên cạnh việc định hướng lại luồng vốn đầu tư, việc gia tăng hiệu quả quản lý nó cũng rất cần thiết. Đây chính là điểm DN cần tự tăng cường, phối hợp với sự kiên quyết của Nhà nước quy định tại các chính sách chế độ liên quan đến việc kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước tại DN. Một điểm rất quan trọng nữa là DNNN cần đi đầu trong việc minh bạch hoá hoạt động SXKD, trước hết là minh bạch hoá hoạt động tài chính, thực hiện kiểm toán độc lập nghiêm túc và công khai kết quả.
Ba là, tăng cường các chính sách, cơ chế tài chính đối với DNNN để thực thi các cam kết với WTO. Đây chính là các chính sách chủ yếu hỗ trợ và đảm bảo cho DNNN thực thi các cam kết liên quan đến DN, bao gồm:
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp và tiến hành cải cách hành chính, đặc biệt trong các lĩnh vực trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh như thủ tục hành chính trong công tác quản lý tài chính, số hoá dữ liệu DN để hoạt động của DN được nhanh chóng, thuận tiện, đồng thời sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước về tài chính được kịp thời, hiệu quả.
- Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các DNNN để các DN có thể chủ động phát triển năng lực cạnh tranh. Làm rõ các phương án cải cách và sắp xếp lại DNNN trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa ổn định và thiếu tính bền vững để tiếp tục thực hiện cam kết cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động khu vực DN công. Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị DN và các nội dung tài chính khác liên quan đến sắp xếp khu vực DNNN.
- Rà soát các quy định về đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN để tăng cường chế tài liên quan, đảm bảo hành lang pháp lý cho DNNN chấp hành kịp thời, nghiêm chỉnh các chế độ, quy định của Nhà nước, do đó, các quy định mới đối với DNNN được thực hiện triệt để, cải cách DNNN mới có hiệu quả thực sự.
- Sớm ban hành bộ chính sách ổn định thị trường vốn và thị trường chứng khoán, rà soát và đảm bảo thực thi các quy định về trách nhiệm của công ty đại chúng đối với việc công bố thông tin, nội dung công bố thông tin, rà soát và đảm bảo thực thi các quy định về trách nhiệm của các công ty kiểm toán độc lập đối với việc kiểm toán các công ty đại chúng, rà soát và đảm bảo thực thi các quy định về việc đảm bảo quyền lợi của các cổ đông nhỏ...
- Rà soát lại các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để đảm bảo việc hỗ trợ là đúng hướng và phù hợp cam kết hội nhập (hỗ trợ thuỷ lợi phí cho nông nghiệp, hỗ trợ xúc tiến thương mại và đầu tư, hỗ trợ thay thế chính sách khuyến khích xuất khẩu, hỗ trợ công ty nhà nước khi thực hiện việc sắp xếp lại, cải tổ DN...). Đồng thời, gia tăng các hỗ trợ kỹ thuật cần thiết như ban hành các quy định hoặc tổ chức dịch vụ hỗ trợ các DN vượt qua rào cản mang tính chất kỹ thuật của thị trường XK; Phổ biến kiến thức về WTO và các văn bản pháp lý liên quan nhằm giúp các DN tăng trưởng và tránh rủi ro. Giúp các DN trong việc gia tăng khả năng cạnh tranh, cung cấp thông tin đầy đủ, hỗ trợ xúc tiến thương mại...
 - Rà soát để ban hành mới các văn bản về quy trình, thủ tục về hợp tác kinh doanh, tranh chấp thương mại trong điều kiện hội nhập quốc tế do hiện các nội dung này còn thiếu hoặc còn yếu, không đủ rõ ràng hoặc thiếu đồng bộ để làm căn cứ triển khai hợp tác hay xử lý các tranh chấp thương mại. Tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, hỗ trợ giải quyết tranh chấp thương mại đối với đối tác nước ngoài
- Sớm ban hành Luật Sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh để điều chỉnh toàn diện hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước, khắc phục tình trạng không thống nhất các quy định về đầu tư vốn nhà nước vào DN đang được quy định tại các văn bản luật hiện hành.


Tài liệu tham khảo 
- Các văn kiện về việc Việt Nam gia nhập WTO;
- Một số bài nghiên cứu về Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam công bố trên báo chí trong nước.